Các Bài Suy Niệm Lễ Hiển Linh (tt)

MỘT CUỘC LÊN ĐƯỜNG MỚI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Belem, những người đầu tiên được đón tiếp Chúa là Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng chăn chiên. Họ đều là những người Do Thái. Tuy thế, ơn Cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại không chỉ dành cho người Do Thái, mà được dành cho tất cả nhân loại trên thế giới. Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông đã nói lên điều đó. Chính vì vậy mà lễ này được gọi là lễ Hiển Linh, tức là Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân. Đây vừa là nỗ lực tìm kiếm của các đạo sĩ, vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa gửi đến các ông để các ông đến tôn nhận vương quyền của Đấng Cứu thế. Ngôi sao lạ chính là biểu tượng của lời mời gọi đó.

Nếu trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa thường hiển linh qua bão tố ầm vang hoặc sấm chớp chói lòa, thì đến thời mà tác giả thư Do Thái gọi là “thời sau hết” này, Thiên Chúa lại tỏ mình dưới dạng một hài nhi thơ bé mới sinh, con của một gia đình nghèo nàn không tìm được quán trọ. Qua Hài Nhi Giêsu ở hang đá Belem, Thiên Chúa đã hạ cố thân hành đến gặp gỡ con người. Được thôi thúc bởi ơn trên, các nhà đạo sĩ đã cất công lên đường để tìm kiếm vị Vua mới sinh. Nhờ ánh sao chỉ đường, họ đã vượt đường xa dặm thẳm để đến với Belem để thờ lạy Hài Nhi mới sinh. Cũng nhờ ánh sao, các ông đã “nhìn thấy” nơi Hài Nhi này là Đấng Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu đã làm họ thỏa mãn và quên hết mệt mỏi của chặng đường dài.

Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc lên đường tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá và những bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của ngôi sao lạ. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ không còn nhìn thấy ngôi sao, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta cảm thấy nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài.

Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp.  Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika (x. Mk 5,1), các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành.

Thiên Chúa là Chúa của muôn loài. Ơn Cứu độ nhờ Đức Giêsu được ban cho hết mọi người, không có ai bị loại trừ. Mọi người đều được quyền đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu. Mọi người đều có quyền được tiếp nhận vào gia đình của Thiên Chúa. Nơi người Do Thái xưa kia cũng như nơi số đông người Kitô hữu hôm nay, vẫn tồn tại một quan niệm lệch lạc về giá trị của ơn Cứu độ. Họ nghĩ rằng ơn Cứu độ chỉ dành cho những người ưu tuyển. Vì thế mà họ coi thường những người không cùng tôn giáo với mình. Qua việc Đức Giêsu tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ, Thiên Chúa khẳng định tính chất hoàn vũ của ơn Cứu độ. Điều này được diễn tả trong Bài đọc I. Ngôn sứ Isaia được chiêm ngưỡng ngày huy hoàng của Giêrusalem. Ngày ấy, người khắp nơi sẽ tuôn về Thánh Đô. Các dân tộc, các nền văn hóa đều quy hướng về Chúa, các sản phẩm tượng trưng cho sự phong phú đang dạng của các dân tộc đều được dâng cho Chúa. Điều mà ngôn sứ Isaia thấy, phần nào đã được thực hiện trong thời đại của Giáo Hội hôm nay. Quả vậy, từ mọi dân tộc, mọi nền văn hóa, danh Thiên Chúa được tôn vinh ca ngợi. Việc lễ Giáng Sinh được cử hành long trọng trên toàn thế giới đã cho thấy sự huy hoàng mà ngôn sứ Isaia đã thị kiến: “Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi (Giêrusalem)… chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi…”. Khắp nơi trên toàn thế giới, các Kitô hữu trong những lễ nghi phụng vụ đều dâng lên Chúa những sản phẩm quý giá của địa phương, để tôn nhận Ngài làm Đấng Sáng Tạo và Chúa tể muôn loài. Việc tôn thờ và dâng tiến của lễ được ba nhà đạo sĩ thực hiện năm xưa, như một nghi lễ mở màn để dẫn tới phụng vụ thánh của ngày hôm nay trên toàn thế giới. Trong Mùa Giáng Sinh, giống như các đạo sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy vị Vua mới sinh và dâng cho Người tấm lòng đơn sơ chân thành của chúng ta. Hãy tôn nhận Người là Chúa của chúng ta, để rồi việc gặp gỡ Chúa trở nên mối ưu tiên hàng đầu, và như thế, những bận rộn lo toan cuộc đời trần thế  không làm chúng ta nản chí và ngã lòng.

Sau khi gặp gỡ và thờ lạy Chúa Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã “đi lối khác mà về xứ mình”. “Đi lối khác” là kết quả của cuộc gặp gỡ với vị Vua mới sinh. “Đi lối khác” cũng là để tránh gặp Hêrôđê đang manh tâm tìm cách xuyên tạc và phủ nhận sự thật. Người tín hữu, sau khi mừng lễ Giáng Sinh cũng cần đi theo ngã rẽ mới, đoạn tuyệt với lối sống cũ còn đầy khuyết điểm, gian tham và ích kỷ. Đó chính là một cuộc lên đường mới để sống đức tin, đồng thời loan báo Đức Giêsu cho mọi người của thời đại chúng ta.

 

 

CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN CHÍ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

  1. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Ðông đến Giêrusalem, và hỏi: “Ðức Vua dân Dothái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Ðông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Ðấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.

Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Ðông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

  1. TẤM BÁNH CHIA SẺ 

Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường. Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem : Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.

Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo : Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.

Tương phản giữa Vua giả và Vua thật : Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác.Trong khi đó, Chúa Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.

Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.

Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.

Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.

Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.

Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.

Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.

Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.

Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe , nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công.  Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là đức cha Kim ở giáo phận Kontum vào những năm 60.

Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU 

1- Ba Vua thiện chí ở những điểm nào ?

2- Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không ? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào ?

3- Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa : giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái ?

 

 

ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, cho mọi người.Dõi theo ánh sao lạ dẫn đường,ba nhà Đạo sĩ đã tới được Bêlem để cung chiêm Hài Đồng Giêsu. Họ mang theo các phẩm vật địa phương như Vàng,Nhũ hương và Mộc dược. Vàng, Nhũ hương và Mộc dược là những tặng phẩm quý giá các nhà Đạo sĩ đã dâng cho Chúa Giêsu. Gặp được Hài Đồng Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, họ đã không trở về đường cũ, họ đã không gặp Hêrôđê nữa vì ông Vua độc ác này đang âm mưu giết Chúa Giêsu.Ba nhà Đạo sĩ đã đi đường khác để trở về quê hương của mình.

Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay cho hay, ánh sao lạ chính là người dẫn đường lặng lẽ, âm thầm, nhẹ nhàng đưa từng chặng, từng bước đường, từng bước chân của ba nhà Đạo sĩ tới gặp Chúa Giêsu nơi Hang đá Bêlem. Ba nhà Đạo sĩ cứ dõi theo ánh sao khi ẩn khi hiện, khi tỏ, khi mờ. Ánh sao lạ này không thu hút ba nhà Đạo sĩ bằng những tiếng gọi, tiếng khua vang, tiếng to, tiếng nhỏ, nhưng cái lạ lùng là ngôi sao dẫn đường chỉ âm thầm, im lặng chiếu sáng bước đi, rọi soi những chặng đường để ba nhà Đạo sĩ có thể tới ngay Hang đá máng cỏ Bêlem để gặp Hài Nhi Giêsu. Cuộc hành trình của ba nhà Đạo sĩ có lắm truân chuyên, có nhiều thử thách bởi ngôi sao dẫn đường có lúc khuất đi, nên ba nhà Đạo sĩ đành dò hỏi những người ở trong thành, những người giỏi chiêm tinh đến nỗi khi nghe có một Hài Nhi Giêsu sinh ra ở Bêlem, Vua Hêrôđê hốt hoảng theo như trình thuật kể lại: Vua cho triệu tập những nhà chiêm tinh, những người gỏi giải điềm báo để hỏi cặn kẽ nơi sinh Đấng Cứu Thế Giêsu. Hêrôđê là con cáo già, manh tâm, ác độc, Ông sợ mất ngôi, soán vị, nên giả vờ nói với ba nhà Đạo sĩ: ” Khi tìm được Hài Đồng Giêsu, thì trở về báo cho Trẫm biết để Trẫm cũng đến triều bái Giêsu…”

Ba nhà Đạo sĩ khi tới Hang đá, họ đã gặp Hài Đồng Giêsu được đặt trong máng cỏ, Mẹ Maria và thánh Giuse im lặng, bái quỳ…Tất cả đều im lặng, sự im lặng thánh nói lên sự linh thiêng, diệu kỳ của Hang đá Máng cỏ và sự thánh thiêng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Gặp được Hài Đồng Giêsu, ba nhà Đạo sĩ đã nhận ra Ngài. Họ không thắc mắc, không lớn tiếng trò chuyện, hỏi han, nhưng họ nhận ra ngay đây là Đấng Cứu Thế, Vị Cứu Tinh Giêsu mà ánh sao lạ đã soi sáng, đưa họ tới đây, do đó, ba nhà Đạo sĩ đã tiến dâng Hài Đồng Giêsu những phẩm vật quí giá của quê hương họ: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược. Rồi được mộng báo họ đi lối khác mà về quê hương, đất nước họ.

Vâng, trong cuộc sống, Chúa vẫn gửi cho chúng ta những ánh sao lạ dẫn đường để chúng ta gặp được Chúa. Những biến cố, những sự việc, những điều xảy ra chung quanh,trong xã hội, trong khu xóm của chúng ta, đó là những dấu chỉ giúp ta gặp được Chúa. Đứng trước ánh nắng mặt trời với những tia nắng vàng, những cơn gió thoảng nhẹ, ánh hoàng hôn.Mặt trăng chiếu sáng, những ngôi sao, những vì tinh tú trên cao, tất cả làm chúng ta suy nghĩ, giúp chúng ta hiểu ai đã dựng nên chúng và nhờ đó chúng ta nhận ra Chúa, tin Chúa và tôn vinh Chúa. Trong kiếp sống con người, tiếng khóc của trẻ thơ, tiếng cười đùa của thnh niên nam nữ. những nụ cười nở hoa của con người giúp chúng ta nhận ra sự kỳ diệu của Thiên Chúa và chúng ta tin vào Ngài, vào quyền năng tuyệt đối và lòng thương xót của Ngài. Mọi Kitô đều được mời gọi dùng gương sáng của minh trong cách sống, nết ở, trong lời nói, cử chỉ, thái độ và việc làm của họ để làm chứng cho nhiều người biết Chúa, người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thánh những ngọn đuốc sáng, những ngôi sao lạ dẫn đường cho nhiều người tìm gặp Chúa. Thực tế, ngày nay nhiều chỗ, nhiều nơi trên thế giới, con người sống đố kỵ, hận thù, ghen ghét, đang bị bao phủ bởi những lớp mây mù do chiến tranh, thù hận, người Kitô hữu được mời gọi trở nên những ngọn hải đăng chiếu soi dẫn đường cho những con tàu, những người đang lầm lạc, sống trong u tối được trở về và tìm gặp được Chúa, tin Chúa và đi theo Ngài …Đối xử tốt, biết sống bác ái vị tha là những thái độ, cử chỉ tốt giúp nhiều người nhận ra Chúa và tin vào Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu để chúng con cũng biết san sẻ tình thương đến cho nhiều người.Xin giúp chúng con trở nên những ánh sao qua những hành động cụ thể, qua việc làm bác ái, qua nụ cười, lòng quảng đại, sự cảm thông đối xử với người khác nhờ đó nhiều người sẽ nhận ra Chúa và tin theo Chúa.Amen.

 

 

ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CHÚA

Lm. Jos Tạ duy Tuyền  

Cuộc sống người ta vẫn gọi là chốn ba đào. Cuộc sống chẳng mấy khi bình yên. Con người luôn phải tất bật vì cơm áo gạo tiền, vì công danh sự nghiệp, vì bổn phận với gia đình và xã hội. Có nhiều người cảm thấy cuộc sống mệt mỏi quá! Cuộc sống sao cứ đưa đến cho ta biết bao khó khăn thử thách! Những lúc ấy  chúng ta cảm thấy mình đơn độc. Chúng ta cảm thấy mọi người bỏ mình để lại khó khăn cho một mình ta. Chính lúc ấy ta cũng cảm thấy Chúa cũng bỏ rơi. Làm sao có thể đến với Chúa, tin vào Chúa khi cuộc đời cứ trăm bề khổ đau?

Vâng, có bao giờ bạn cảm thấy như Chúa bỏ rơi bạn không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc bạn rất cần đến Ngài. Giữa những lúc túng ngặt về kinh tế hay đau yếu bệnh tật, bạn kêu cầu: Lạy Chúa, xin đừng để chuyện này xảy đến cho con. Nhưng chuyện vẫn xảy ra. Dường như lúc nào bạn cũng đứng về phe thua bại. Bạn hãy nghe câu chuyện sau đây:

Một người nằm mộng thấy mỗi lần mình đồng hành với Chúa đều thấy để lại trên bãi cát dấu chân của Chúa và của mình song hành nhau. Nhưng mỗi lần gặp bão tố, thì thấy chỉ có một dấu chân mà thôi.

Người ấy hỏi Chúa rằng:
Thưa Chúa! Tại sao lúc cuộc đời của con bình yên, thoải mái, êm đềm, con thấy hằn lên trên bãi cát dấu chân của Chúa và của con song song với nhau. Nhưng trong những lúc đời con gặp khó khăn, sóng to gió lớn dập vùi, đau khổ tối tăm, thì con chỉ thấy có một dấu chân của con hằn lên bãi cát mà thôi? Phải chăng đó là những lúc Ngài bỏ rơi con, để con một mình giữa trần gian giông tố? Phải chăng đó là lúc Ngài không còn quan tâm đến con và phó mặc con cho số phận cuộc đời?

Nhưng Chúa nhẹ nhàng trả lời rằng:
– Con ơi! Những dấu chân độc hành con thấy trên bãi cát trắng đó không phải là của con đâu! Đó là dấu chân của ta, ta bước đi một mình, còn con thì ta đã bồng ẵm vào lòng của ta.
Niềm tin vào Chúa mời gọi chúng ta hãy vững tin vì Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta chẳng lìa con, chẳng bỏ con bao giờ” (Dt 13,5).

Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: “Chúa hằng hữu bênh vực tôi, tôi còn sợ loài người làm chi tôi nữa” (Tv 118,6).

Hôm nay lễ Ba Vua cho chúng ta nhìn lại hành trình đến với Chúa của Ba Vua. Đó là hành trình vượt ngàn gian khổ. Gian khổ về địa lý đồi núi, hiểm trở xa cách ngàn trùng. Gian khổ vì bế tắc đôi khi không biết mình đi đâu? Hỏi đường thì gặp các Vua Chúa quan quyền thâm độc nguy hiểm. Giữa những bơ vơ cuộc đời họ lại được ánh sáo dẫn dắt đưa đường. Dù là ánh sao lẻ loi nhưng cũng cho họ niềm tin và nghị lực.

Ánh sao đó định hướng cho Ba Vua tìm gặp vị quân vương mới sinh. Ánh sao đó cho Ba Vua niềm tin để bước đi. Khi có niềm tin và hy vọng gặp được Chúa thì mọi lo âu, ưu phiền hay gian khổ cũng sẽ qua. Vì cuối hành trình ta luôn gặp được Đấng mà ta tôn thờ.

Vâng thưa anh chị em, con đường đến với Chúa, tìm gặp Chúa luôn gặp khó khăn nhưng không có đường cùng nhất là còn có Chúa đồng hành. Chúa sẽ cho ta những ánh sao là những ân nhân, những phương tiện để giúp chúng ta vượt qua. Hãy tin tưởng và bước đi theo ánh sao là tiếng nói của con tim yêu mến Chúa trên hết mọi sự, của lương tâm ngay thẳng, của lòng trung kiên với Chúa.

Hành trình cuộc đời nào cũng có khó khăn. Con đường nào cũng có gian khổ. Hãy tin rằng cuối chân trời ta luôn có Chúa. Hãy tin tưởng vào sự dắt dắt của Chúa mà mạnh dạn bước đi. Hãy phó thác đường đời trong tay Chúa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ và phù giúp đời ta.

Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa mà bước đi theo thánh ý Thiên Chúa. Ước gì cuộc đời ta luôn có ánh sao dẫn dắt để ta đi theo con đường của Chúa, con đường của tin yêu và hy vọng. Amen.

 

 

CUỘC CHẠY TRỐN CỦA THÁNH GIA,

NGHĨ VỀ NGƯỜI TỊ NẠN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp liền sau Đại lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ Chúa Hiển Linh hay còn gọi là lễ Chúa Tỏ Mình. Theo một truyền thống rất xa xưa từ thế kỷ thứ II, thánh Giustinô đã nói tới là Chúa Giêsu đã sinh ra trong một chuồng bò lừa tại Belem. 40 ngày sau, Thánh Giuse và Đức Maria đem Hài Nhi lên Đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa như luật dạy. Phúc Âm Thánh Matthêô cho biết: sau khi dâng Chúa trong Đền Thánh, Thánh Gia không trở về Nagiarét ngay. Trong khoảng thời gian này đã xảy ra nhiều việc liên quan với nhau. Từ Đền Thờ, Thánh Gia lại trở về Belem. Chính nơi đây, các đạo sĩ, do một ngôi sao dẫn đường từ Phương Đông tới thờ lạy Chúa Giêsu và dâng cho Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Hêrôđê thấy các đạo sĩ không trở lại Giêrusalem báo tin như lời mình dặn, sợ ngai vàng của mình bị đe dạo, ông ra lệnh truyền giết các trẻ em ở Belem và các miền phụ cận từ 2 tuổi trở xuống. Thánh Giuse được Thiên thần báo tin, đã đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ sang Ai-Cập và ở đó cho tới khi Hêrôđê băng hà (x. Mt 2, 1-12).

Điều gì đã xảy ra vậy ? Thưa, một gia đình bị buộc phải trốn khỏi quê nhà vì nỗi lo sợ bị bách hại. Đây chính là định nghĩa thời hiện đại về người tị nạn. Trên thực tế, Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn xác định nhóm người này như sau:

Người tị nạn là những người đã bị buộc phải chạy trốn khỏi đất nước của mình vì khủng bố, chiến tranh hoặc bạo lực. Người tị nạn mang trong mình nỗi sợ hãi xác đáng đối với việc bị bách hại vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, quan điểm chính trị hoặc thành viên trong một nhóm xã hội cụ thể nào đó.

Thánh Gia Thất, theo như trình thuật Tin Mừng Mátthêu, đã phải chạy trốn vì “nỗi sợ hãi xác đáng đối với việc bị bách hại” bởi vì là “thành phần trong một xã hội cụ thể”, trong trường hợp này là những người có con nhỏ và đang sinh sống tại Bethlehem.

Đức Maria và Thánh Giuse có được áp dụng tình trạng tị nạn chính thức không? Tất nhiên là không. Những kiểu quy định như vậy hầu như không có hiệu lực. Có lẽ lúc đó thậm chí chưa có bất kì đường biên giới nào. Nhưng, theo như Daniel J. Harrington, S.J., một học giả Tân Ước, nhắc nhở chúng ta trong những bình luận của ông về Tin Mừng Mátthêu trong loạt sách Sacra Pagina của mình : Ai Cập, dưới sự kiểm soát của La mã vào năm 30 TCN, nằm ngoài thẩm quyền của vua Hêrôđê. Ai Cập đã trở thành nơi ẩn náu truyền thống dành cho người tị nạn của những người Do Thái trong các thời kỳ Kinh Thánh (x.1V 11,40; Gr 26,21) và thời Maccabean khi vị thượng tế Onias IV chạy trốn khỏi đó.

Như vậy, chúng ta có thể thấy một gia đình đang chạy trốn sang một quốc gia khác vì lo sợ bị bách hại. Mátthêu kể rằng : Thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người” (Mt 2,13).

Cho dù Gia đình Thánh Gia không giống những người tị nạn hôm nay, thì chúng ta vẫn cần phải có tinh thần bác ái và sẵn sàng để chăm sóc cho những người tị nạn và những người di cư đương thời.

Khi suy niệm đoạn Tin Mừng trên trong bối cảnh thế giới đối diện với làn sóng người tị nạn và những người nhập cư, một số nhà bình luận đã tìm cách vạch ra điểm tương đồng giữa hoàn cảnh của họ và của Gia đình Thánh Gia, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse. Người ta đặt câu hỏi : Có phải Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse mà ngày nay chúng ta coi là những người “tị nạn”?

Đức Thánh Cha Phanxicô vì cũng xuất thân từ một gia đình di dân người Ý sang Achentina, ngài rất nhạy cảm trước cảnh di dân ngày nay, và đồng cảm với nỗi thống khổ của những người di dân, đã buộc phải bỏ xứ ra đi để kiếm sống nơi đất khách quê người sẽ cho chúng ta câu trả lời.

Trong bài giảng thánh lễ Noel truyền thống 24/12/2017 tại Vương cung thánh đường thánh Phêrô ở Roma, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đặc biệt đến số phận của những người di dân và kêu gọi giáo dân toàn thế giới mở rộng vòng tay đón tiếp họ. Ngài nói : “Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải rời bỏ quê hương của họ. Rồi khi đến Bêlem, họ đã không được ai đón nhận. Họ cũng giống như những người di dân hiện nay”. Đức Thánh Cha đã so sánh nơi Chúa Giáng Sinh với thế giới bây giờ, đôi khi quá thờ ơ với những người đã mất hết tất cả. Ngài giải thích : “Trong bước chân của Thánh Giuse và Mẹ Maria, ẩn chứa nhiều bước chân khác, bước chân của những gia đình mà nay cũng buộc phải bỏ nước ra đi. Hàng triệu người đã không chọn con đường lưu vong, nhưng đã buộc phải rời bỏ người thân hoặc bị đuổi khỏi làng mạc của họ”. Ngài nhấn mạnh : “Đối với nhiều người, sự ra đi này chỉ mang một tên duy nhất : sự sống còn”. Ngài cũng kêu gọi mọi người hãy chia sẽ và loan báo tin mừng Giáng Sinh mà không sợ hãi : “Noel là lúc chuyển hóa sức mạnh của cái sợ thành sức mạnh của lòng bác ái”. Ngài cũng lưu ý : “Khi xuống thế làm người, Chúa kêu gọi mọi người bảo vệ những kẻ đã rơi vào tuyệt vọng”.

Không phải vô cớ mà tổ chức bảo vệ và hỗ trợ người di dân, Horizon sans frontières (Chân trời không biên giới), trụ sở ở Senegal, châu Phi, năm nay một lần nữa đã chọn giáo hoàng Phanxicô là “Nhân vật của năm”. Thật vậy, kể từ khi lên lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, ngài vẫn thường xuyên đưa ra những lời kêu gọi hoặc đề nghị những biện pháp để giúp đỡ người di dân trên toàn thế giới.

Hãy tiếp đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập người di dân và tị nạn. Đó là bốn việc cần làm trong năm nay, khi Đức Giáo hoàng Phanxicô đưa ra lời kêu gọi trong sứ điệp công bố sáng 21-8-2017, nhân ngày Thế Giới di dân và tị nạn sẽ được cử hành vào ngày 14-1 năm tới, 2018.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người biết vui vẻ tiếp đón tha nhân, và xin cho họ tìm được nơi ở xứng đáng với sự trợ giúp của chúng ta. Amen.

 

 

ĐẾN THỜ LẠY CHÚA

Anna Cỏ May

Chúng ta không xa lạ về những ngôi sao. Trong những chương trình truyền hình, ngôi sao được đặt trong sự hy vọng cho những người chơi có cơ hội dành phần thắng. Còn ngôi sao chúng ta thấy trong ngày Noel cũng mang lại cho chúng ta hy vọng, nhưng tuyệt vời hơn là ngôi sao ấy là ánh sao dẫn đường. Ánh sao cứu độ.

Khi đêm về, nhìn lên bầu trời, chúng ta dễ bắt gặp nhiều ngôi sao nhỏ lấp lánh trên bầu trời. Nhìn lên ngôi sao và bước đi, chúng ta có cảm giác là ngôi sao ấy đang đi song song với chúng ta. Nếu chúng ta dừng lại, ngôi sao cũng dừng lại. Thế nhưng, các nhà chiêm tinh xưa kia lại được ngôi sao dẫn đường. Họ đi tìm Đức Vua Do thái mới sinh. Làm sao họ biết ngôi sao ấy sẽ cho họ biết? Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói rằng, các nhà chiêm tinh hay nhìn ngôi sao để lập số tử vi của những trẻ mới sinh. Từ ngôi sao đã cuốn hút, mặc khải và thúc đẩy họ lên đường đến Giêrusalem. Các nhà chiêm tinh đã gặp vua Hêrôđê để biết rõ về Hài Nhi nên đã tiến vào mà hỏi “Đức vua dân Do thái mới sinh hiện đang ở đâu?” Nhà vua nghe vậy hết sức bối rối. Bởi ngoài mình ra còn ai có thể là vua nữa, phần khác vì vua sợ mất vương quyền. Nhà vua liền triệu tập các thượng tế, kinh sư trong dân lại mà hỏi cho rõ. Họ đã trả lời “Tại Bêlem, miền đất Giuđê”. (Mt 2, 5). Bây giờ màn đêm bao phủ, tâm hồn nhà vua tràn ngập sự ích kỷ, lòng ghen ghét. Vua đã bí mật vời các nhà chiêm tinh đến với thái độ khẩn cầu. (x. Mt 2, 28). Các nhà chiêm tinh không chút nghi ngờ, họ vội vã lên đường theo hướng ngôi sao. Thiên Chúa đã soi sáng bên trong và chắp nối hoàn cảnh bên ngoài để dẫn họ đi tìm Vua dân Do thái. Đường xa đầy những gian nan, lạnh lẽo nhưng các ông vẫn ấm áp trong lòng. Họ đã vượt qua những gian nan vất vả và cuối cùng họ cũng tìm thấy ngôi sao. Họ bước vào và nhìn thấy một hài nhi cùng với cha mẹ người. Lòng các ông đầy phấn khởi. Các ông lấy vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến. Họ nhìn nhận Hài Nhi Giêsu là một nhân vật siêu phàm và là một Thiên Chúa cao cả. Còn chúng ta thì sao? Các nhà chiêm tinh đi tìm Chúa theo ánh sao dẫn đường. Chúng ta cũng có rất nhiều dấu chỉ đường. Nếu ai trong chúng ta say mê tìm hiểu Lời Chúa và để Lời Ngài đánh động, chúng ta sẽ tìm thấy Ánh Sáng. Một khi chúng ta bước đi trong giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta sẽ không sợ lạc đường. Các nhà chiêm tinh gặp gỡ Chúa thì liền bái lạy. Khi đến với Chúa trong Thánh lễ, chúng ta đã dâng Chúa những gì, có tâm tình và thái độ nào?

Đừng chần chừ nữa! Chúng ta hãy đến gặp gỡ Chúa nhiều hơn, lắng nghe và yêu mến Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa! Có lẽ còn có rất nhiều người chưa gặp được Chúa hay đã gặp gỡ Chúa nhưng chưa hết lòng ở lại với Chúa. Lạy Chúa! Trong ngày lễ Hiển linh này, chúng con xin Chúa hãy tiếp tục tỏ mình ra, để chúng con được gặp gỡ và ở lại với Chúa. Nhờ đó, cuộc sống của chúng con sẽ trở nên chứng nhân và lời rao giảng Tin Mừng của Chúa cho mọi người.

 

ĐỂ CHÚA THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN

Bông hồng nhỏ

Bình minh chưa ló rạng, tiếng chim cũng chưa ríu rít trên cành, ta đã bừng tỉnh để dâng ngày cho Chúa. Chúa đã cho ta có thêm một ngày để sống, để hát lên bài ca tạ ơn Người.

Ngày xưa, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đi đến Giêrusalem để tìm vua dân Do thái mới sinh. Các ngài đi theo ánh sao trên trời và tìm đến với vua Hêrôđê để biết rõ về Đức Vua dân Do thái đã sinh ra hiện ở đâu. Các ông mang tin đến khiến cho “vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao.” (Mt 2, 3). Nhà vua như ngồi trên đống lửa. Nghe tin dữ, “Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu” (Mt 2, 4).

Được nhà vua phái đi Bêlem, các nhà chiêm tinh lại lặn lội đường xa để tìm gặp cho kỳ được Đức Vua dân Do thái mới sinh. Lòng khát khao gặp được Đức Vua đã giúp các nhà chiêm tinh vượt qua nhiều khó khăn và trở ngại để tiếp tục lên đường. Đã bao giờ ta nóng lòng tìm đến với Đức Vua của mình chưa? Đấng hằng ngày vẫn hiến mình vì ta, nuôi sống ta bằng chính Máu Thịt của Người. Lòng ta có rộn rã và mừng vui khi được đến và ở lại bên Đức Vua hay ta lo lắng hết chuyện này đến chuyện nọ mà thờ ơ với Đấng hằng ở cùng ta? Khi trông thấy ngôi sao của Đức Vua lại xuất hiện, các nhà chiêm tinh vô cùng mừng rỡ và bước vào nhà. Lòng các ông bây giờ no thỏa biết bao. Sau bao nhiêu vất vả, nhọc công tìm kiếm, các ông cũng được chiêm ngắm Hài Nhi với thân mẫu là Mẹ Maria. Các ông sấp mình thờ lạy Người. Những lễ vật quý giá được các ông dâng tiến cho Đức Vua là vàng, nhũ hương và mộc dược. (x. Mt 2, 10-11). Nhưng lễ vật đẹp lòng Đức Vua hơn hết đó chính là tấm lòng thành kính và mến yêu của các ông dành cho Người. Khi đến với Đức Vua của mình, có lẽ ta không phải vượt qua dặm đường dài nhiều gian lao vất vả như các nhà chiêm tinh, ta cũng không phải mò mẫm tìm đường như các ngài, nhưng thiết nghĩ con đường đến với Chúa ngay chính trong tâm hồn ta cũng không thiếu những gian lao vất vả. Đó là những khi ta tự cho mình đã tốt lành thánh thiện, đã gặp gỡ Chúa đủ rồi, đọc được bấy nhiêu kinh nguyện là đã sốt sắng. Tâm hồn ta sinh ra tự kiêu và tự mãn. Làm sao Chúa Hài Nhi có thể ngự trong một tâm hồn đầy yếu đuối như thế, bất xứng như thế? Ta có thấy bóng dáng của một Hêrôđê trong mình với một lòng mong muốn giả tạo được gặp Hài Nhi mà đến bái lạy Người? Quả là ta đã sai lầm rồi. Ta đến bên Đức Vua và xin Người thánh hóa tâm hồn và thanh luyện lòng khát khao của ta để mỗi ngày, ta lại đến bên Người mà thợ lạy với lòng sám hối. “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng kinh chê.” (Tv 51, 19).

Lạy Chúa! Chúa muốn con là ánh sao khi con làm gương sáng cho một người bên cạnh nhận thấy tình thương của Chúa. Đó là khi con tươi nở nụ cười, con chia sẻ những gì con có cho người chị em của con hay bất cứ ai con gặp gỡ. Một nụ cười chân thành có thể làm ấm trái tim ai đó và một lời động viên an ủi sẽ nâng đỡ họ biết bao. Chúa muốn con kiên trì tìm kiếm và gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Xin cho con biết khiêm tốn nhìn nhận những yếu đuối nơi con và luôn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn con. Amen.

 

 

HÀI NHI GIÊSU – ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG CHO DÂN LOẠI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Mùa Giáng Sinh năm nay, từ thành thị đến thôn quê, từ nhà thờ đến đường phố, siêu thị, nhà hàng…, các hang đá, các loại ánh sáng được trang hoàng lung linh, rực rỡ. Lễ Chúa Giáng sinh còn được gọi là lễ của Ánh sáng, không phải vì đường phố ngập tràn ánh sáng lung linh huyền ảo, mà vì đêm mừng Chúa Giáng Sinh chính là đêm Vị thần Ánh Sáng ra đời. Cuộc Giáng sinh của Chúa Giêsu như là ánh sáng từ trời xuất hiện trong đêm tối của trần gian. Nhân loại đang lần bước trong tối tăm được ánh sáng Chúa chiếu soi và dẫn đường. Con người sống trong tối tăm của buồn chán tuyệt vọng được ánh sáng niềm vui và hy vọng chiếu tỏa.

Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Hiển Linh, tức là Chúa tỏ mình ra, chiếu ánh sáng đức tin và ơn cứu độ đến cho nhân loại, đặc biệt là những người thành tâm thiện chí. Tiên tri Isaia đã diễn tả niềm vui và hi vọng qua những lời lẽ thật phấn khởi hân hoan: Đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đã đến. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, mây mù phủ lấp chư dân sẽ được vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Vị tiên tri tiên báo những lời hân hoan hy vọng này trong hoàn cảnh dân Israel đang sống trong cảnh tối tăm, đau khổ vì bị lưu đầy. Có lúc họ đã hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng, vì nghĩ rằng: Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi, Ngài đã ngoảnh mặt làm ngơ trước cảnh tối tăm cùng cực của dân Người. Tiên tri cho thấy Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa ánh sáng của Chúa trên dân Người và Ngài còn chiếu ánh sáng ơn cứu độ đến với dân ngoại là những kẻ đang lầm đường lạc lối, chưa nhận biết Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ dùng ánh sáng để dẫn đưa họ gia nhập vào đoàn dân của Người.

Viễn tượng tiên tri Isaia tiên báo về một thời ngập tràn ánh sáng đã được ứng nghiệm qua câu chuyện Chúa Giáng sinh. Các mục đồng là những người Do Thái đầu tiên đón nhận được ánh sáng niềm vui hy vọng, kế đến là các đạo sĩ từ phương Đông, là những người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý, họ đã gặp được Chúa Hài Nhi. Thánh Matthew thuật lại: Có ba nhà đạo sĩ từ phương Đông tìm đến Giêrusalem và hỏi: Đức vua dân Do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lậy Người. Hành trình đi tìm ánh sáng chân lý của các đạo sĩ thật vất vả. Với một niềm tin đơn thành của những nhà chiêm tinh, cho rằng ngôi sao lạ xuất hiện báo hiệu một vị Minh Vương ra đời, thế là họ lên đường. Các đạo sĩ đã phải trải qua một hành trình rất dài và rất nhiều khó khăn. Các ông chấp nhận từ bỏ cuộc sống êm ấm, yên ổn tại quê nhà để lên đường với bao khó khăn, nguy hiểm do con người và thiên nhiên gây ra trên hành trình dài. Tuy nhiên, do lòng khao khát tìm kiến ánh sáng chân lý, mong muốn gặp được vị Minh Vương mới sinh, các ông đã chấp nhận tất cả rủi ro xảy ra.

Hành trình của các đạo sĩ có những lúc hết sức thuận lợi và phấn khởi khi được ngôi sao lạ dẫn đường. Có những lúc các ông rơi vào tăm tối mịt mù vì ngôi sao đã biến mất, các ông như bị lạc đường, dò dẫm trong tăm tối. Các đạo sĩ vẫn không chán nản, không bỏ cuộc, các ông đã dùng hết khả năng và sự khôn ngoan tự nhiên để dò hỏi về Vua người Do Thái mới sinh, kể cả việc liều mình vào hỏi thông tin từ vua Hêrôđê. Có lẽ lúc này, các đạo sĩ vẫn mường tượng đến một vị hoàng tử được sinh ra trong cung điện với đầy gấm vóc lụa là, giàu sang.

Vua Herođe đã triệu tập các thượng tế và luật sĩ đến để điều tra về  nơi Hài Nhi được sinh ra. Họ trả lời, Kinh Thánh đã cho biết: Tại Belem, xứ Giudea. Các đạo sĩ dựa vào lời Kinh Thánh này để tiếp tục hành trình tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Họ cảm thấy phấn khởi vì lời hướng dẫn của Kinh thánh qua các ngôn sứ.  Điều đó chứng tỏ rằng, chỉ có Kinh Thánh là bảng chỉ đường đáng tin nhất, giúp người thành tâm thiện chí tìm gặp Chúa cứu thế. Thiên Chúa có thể dùng những dấu chỉ tự nhiên trong vũ trụ để giúp những người thiện chí có một khởi đầu tin vào chân lý, nhưng để có thể nhận biết Thiên Chúa một cách rõ ràng và chính xác, thì cần phải dựa vào Kinh Thánh. Vì Kinh Thánh chính là Lời Chúa nói và hướng dẫn con người đi theo con đường chân lý.

Các đạo sĩ đã đến nơi, họ gặp được Hài Nhi và thân mẫu Người là bà Maria. Họ sấp mình thờ lậy Người. Họ dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Khát khao tìm kiếm ánh sáng chân lý của các đạo sĩ và sự hy sinh vất vả của các ông đã được đền bù, họ được gặp Vua người Do Thái. Mặc dù hình ảnh trước mắt họ hoàn toàn khác với những điều họ hình dung trước dây. Trước mặt họ chỉ là một Hài Nhi bé nhỏ trong tay một người mẹ, một nơi ở đơn sơ tồi tàn, thế nhưng, con mắt đức tin của họ đã được khai sáng. Các ông đã tin và đã mở kho tàng của mình ra để dâng tặng Hài Nhi: Vàng, tượng trưng cho phẩm vị của bậc quân vương; Nhũ hương, thể hiện lòng kính trọng đối với thần linh, nhìn nhận Hài Nhi là Thần Linh và Mộc dược là hương liệu quý dùng để chữa trị vết thương, ướp tẩm – các vị đạo sĩ nhìn nhận Hài Nhi cũng là một con người trọn vẹn. Với một niềm tin sâu xa như thế, các đạo sĩ đã sấp mình thờ lậy Hài Nhi Giêsu như thờ lậy chính Thiên Chúa.

Câu cuối cùng trong đoạn tin Mừng Mathew cho thấy kết quả của hành trình tìm kiếm Chúa Hài Nhi của các đạo sĩ và cũng là hoa trái của việc được gặp gỡ Thiên Chúa: Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình. Herođê tượng trưng cho con người cũ, con người gian ác và cũng là tượng trưng cho quyền lực của bóng tối và mờ ám. Herôđê với tâm địa gian ác, đã giả bộ để lôi kéo các đạo sĩ quay lại với ông sau khi gặp Hài Nhi. Nhưng câu chuyên cho thấy: Khi các đạo sĩ gặp được Hài Nhi Giêsu là ánh sáng, họ đã tin, họ được quét sạch khỏi tối tăm mê muội và đã trở nên con cái của ánh sáng. Các đạo sĩ được sứ thần của Chúa hướng dẫn để không quay lại với thế lực tối tăm của Herôđê nữa. Trái lại, họ bước vào một hành trình mới, một con đường mới, để trở về xứ sở mình, đem theo niềm vui, hy vọng và ánh sáng cho xứ sở mình.

Thưa quý OBACE, đa số chúng ta không phải vất vả tìm kiếm ánh sáng đức tin như các đạo sĩ. Trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội, tâm hồn và cuộc đời chúng ta đã được thắp sáng bởi ánh sáng từ Chúa Kitô Phục Sinh, được mời gọi trở nên con cái của ánh sáng. Tuy nhiên, vì không phải vất vả tìm kiếm, nên nhiều người đã không biết trân trọng, gìn giữ ánh sáng đức tin cho cuộc đời mình. Họ để mình rơi trở lại trong bóng tối của ù lỳ, lười biếng và tội lỗi, để cho ánh sáng đức tin trở thành yếu ớt, vàng vọt, không đủ sức tỏa sáng để dẫn đường cho mình và cho người khác.

Nhiều người, đặc biệt các bạn trẻ, đang để mình bị chói mắt, choáng ngợp, mù lòa, bởi các thứ ánh sáng của khoa học, công nghệ và lối sống hào nhoáng giả tạo của xã hội hôm nay, khiến họ bị lạc đường; bên ngoài có vẻ sáng nhưng trong lòng lại đầy tăm tối. Các loại bóng tối của ăn chơi, hưởng thụ, đèn mờ và các quan điểm, trào lưu tư tưởng, sách báo… đang làm nhiều người lạc đường, mất phương hướng. Hãy tìm về với ánh sáng thật là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài; hãy để cho ánh sáng tình yêu của Chúa xua tan bóng tối hận thù, dửng dưng và để cho Tin Mừng của Chúa như ngôi sao dẫn đường đưa ta tới gặp được Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.

Mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta được mời gọi liên tục bước vào hành trình tìm kiếm và tái khám phá đức tin của mình theo sự dẫn dắt của ánh sáng Tin Mừng. Xin Chúa giúp ta dám chấp nhận những khó khăn thử thách, vượt thắng những cám dỗ hấp dẫn ngọt ngào trên hành trình theo Chúa. Xin thương biến đổi chúng ta mỗi ngày nên con cái ánh sáng, giúp ta dám sống, dám làm chứng cho chân lý và sự thật, dám sống một cuộc sống khác với dòng chảy của xã hội hưởng thụ, gian dối và tối tăm vì thiếu tình yêu ngày nay. Amen.

 

 

HÃY TỎA SÁNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tối hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.

Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”

Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”

Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”

Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ những chiếc bật lửa của những người hiện diện.

Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)

Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa hài nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Ki-tô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.

Lời Chúa trong sách tiên tri I-sai-a được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.

“Hãy đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.

Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.

Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân ;

còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,

vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.

Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,

vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (I-sai-a 60,1)

Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)

Phải  tỏa sáng cách nào?

Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: Đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.

Như giọt sương mai

Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.

Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai.

Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin mừng Chúa Ki-tô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì ánh sáng Tin mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con  được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng.”

 

 

KHÁT KHAO

Lm. Trần Việt Hùng
Ba nhà đạo sĩ từ phương xa tìm đến gặp Chúa Giêsu Hài Nhi. Họ là những người khôn ngoan. Thấy ngôi sao lạ, họ đã đi tìm kiếm. Chúng ta có thể nói, mọi người đều có thể nhìn thấy ngôi sao nhưng không phải mọi người đều hiểu được ý nghĩa. Muốn nhìn thấy sao, người ta phải ngước nhìn lên trời.

Ba nhà đạo sĩ không chỉ thấy ngôi sao lạ mà còn thấy ẩn ý nơi ngôi sao. Họ nhìn thấu qua dấu chỉ để đi tìm về nguồn Chân Thiện Mỹ. Họ không quản ngại đường xá xa xôi cách trở, không ngại khó khăn và gian nan. Họ đã rời quê hương xứ sở để đi tìm theo dấu lạ. Họ đã dõi theo hướng sao lạ trong lòng tràn đầy niềm hy vọng tìm về nguồn chân lý.

Đôi lúc lạc hướng, họ đã dừng lại hỏi thăm. Tìm hiểu qua những lời loan báo trong Kinh Thánh, họ biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại Belem. Họ đã tiếp tục lên đường tìm kiếm. Họ đã gặp được Ngài và đã bái phục tôn thờ Ngài. Họ đã nhận được phần thưởng lớn lao là gặp được chính Đấng mà thiên hạ bao năm đợi trông. Họ đã tiến dâng Chúa Hài Nhi các phẩm vật là vàng, nhũ hương và mộc dược.

Tìm sẽ gặp. Các đạo sĩ tìm và đã gặp Chúa. Họ đã trở về trong hân hoan theo con đường khác. Sau khi gặp được Đấng Cứu Thế, cuộc đời của họ đã thay đổi. Họ không màng thế sự trần gian nhưng trở về lòng tràn đầy hy vọng.

Trái lại, có những người ngồi nhà đợi tin: như Hêrôđê, như các thầy tư tế và các nhà nghiên cứu Thánh Kinh, họ cậy dựa vào sách vở, vào uy quyền, vào khả năng chuyên môn và không muốn dấn thân tìm kiếm, họ đã không gặp được Chúa.

Muốn tìm gặp Chúa, chúng ta phải có thái độ khiêm nhường phó thác, tìm kiếm và học hỏi. Chúa vẫn hiện diện đó nhưng chúng ta không thấy và không gặp được Ngài. Bởi vì chúng ta không ngước mắt nhìn lên mà chỉ cúi xuống tìm kiếm những nhu cầu vật chất và quanh quẩn trong ước muốn tầm thường của con người.

Xin cho chúng con biết khao khát và tìm kiếm nguồn Chân Thiện Mỹ, chính Chúa là nguồn gốc và trung gian của cả vạn vật. Chúa là khởi điểm và cùng đích của tất cả mọi sự. Có Chúa là có tất cả.

 

 

BA NHÀ CHIÊM TINH VÀ TÔI

Lm Trịnh Ngọc Danh

Sau khi giải thích cho tín hữu Êphêxô mầu nhiệm về sự hòa giải giữa người Do thái và người ngoại, giữa loài người với Thiên Chúa, thánh Phaolô đã viết: “ Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ, và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với ngưới Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.”( Ep 3: 5-6) Mầu nhiệm ấy đã được minh chứng qua đoạn Tin Mừng hôm nay nói về các nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi.

Những nhà chiêm tinh cũng như những nhà bác học hay khoa học, nhìn thấy những vì “sao lạ” qua vũ trụ, nơi sự hiện diện của con người; và qua đó, có người nhận ra và tin có Đấng Sáng Tạo, nhưng cũng có người vẫn cố tình phủ nhận Đấng ấy. Trong cuộc sống mỗi ngày, nếu có một chút ngạc nhiên đối với thiên nhiên, đối với con người, người ta sẽ khám phá ra những vì sao mặc khải.

Trước hết, cuộc hành trình của ba nhà chiêm là một cuộc hành trình đức tin. Với một niềm khao khát Vị Cứu Tinh, khi nhận ra ngôi sao báo hiệu Đấng Cứu Thế đã ra đời, ba vị đã mau mắn lên đường đi tìm để bái lạy, bất kể khó khăn gian khổ thế nào.

Chẳng cần biết dựa vào kiến thức chuyên môn nào mà ba nhà chiêm tinh đã nhận ra ngôi sao xuất hiện bên phương Đông là ngôi sao báo cho họ biết : Đức Vua dân Do thái mới sinh ra. Vua Do thái mới sinh ra thì có gì quan trọng đối với dân ngoại, một dân sống thù nghịch với dân Do thái! Thế mà họ đã mau mắn lên đường tìm đến Vua Do Thái mới sinh còn đỏ hỏn cùng với những lễ vật qúy giá để thờ lạy. Không biết họ có phải là những người mù quáng, bốc đồng hay không nhỉ! Không. Họ là những người đang khát vọng có một Đấng Cứu Tinh đến để giải thoát họ khỏi cuộc sống vô vọng. Đó là niềm khát vọng vô tận khi con người chưa tìm được một lẽ sống cho cuộc đời mình. Họ đã mau mắn lên đường, bất chấp những khó khăn trước mắt. Chính niềm tin và hy vọng đã thôi thúc họ lên đường. Họ đã xóa tan mặc cảm ngăn cách. Họ quyết chí lên đường để tìm đến Vị Vua có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc cho họ.

Là vua thì phải ở chốn cao sang. Không ai khác có thể chỉ cho họ ngoài vua Hêrôđê: “ Đức Vua Dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay!

Nghe tin ấy, dân chúng cả thành Giêrusalem xôn xao, vua Hêrôđê thì bối rối. Ai cũng biết ông bối rối vì sao. Thế là ông triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho ra Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Cũng không khó khăn gì lắm. Chỉ việc lật giở Kinh thánh ra thì họ đã biết ngay là “tại Bê lem, miền Giuđê” Và ngôi sao lại xuất hiện đưa ba vị chiêm tinh đến tận nơi Hài Nhi mới sinh ra. Thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, họ “ liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.” Rồi được báo mộng, ba vị không trở lại gặp vua Hêrôđê, nhưng “ đã đi lối khác mà về nhà mình.” Còn tôi, một người Kitô hữu, đã có ánh sao Tin Mừng dẫn đường, nhưng tôi đã theo hay để lạc mất ánh sao?

Thiên Chúa đã mặc khải về Ngài cho dân Do Thái qua Kinh Thánh, nhưng Ngài lại mặc khải cho dân ngoại qua thiên nhiên. Một nghịch lý là dân Do thái có Kinh Thánh lại không nhận ra Đấng Mêsia, trong khi đó qua thiên nhiên và qua sự giúp đỡ của Kinh Thánh, dân ngoại đã nhận ra Đấng ấy.

Giống như ba nhà chiêm tinh, chúng ta cũng đang đi trong cuộc hành trình đức tin. Khởi đầu cuộc hành trình bằng bí tích Rửa Tội để trở thành con cái Thiên Chúa, chúng ta đón nhận ánh sao đức tin. Nhưng ngôi sao ban đầu ấy có thể bị lu mờ hay bị biến mất vì những đám mây dục vọng tội lỗi, đám mây của gian nan thử thách che khuất. Ba nhà chiêm tinh cũng đã lạc mất ánh sao, nhưng họ không nản lòng bỏ cuộc. Họ vẫn vững niềm tin. Mỗi người Kitô hữu phải bước theo ánh sao bằng cách suy niệm, học hỏi và thực hành Tin Mừng; đồng thời phải trở thành ánh sao để chiếu ánh sáng Tin Mừng cho người khác. Đừng để lạc mất Ánh Sao để trở thành ánh sao.

 

TỎ MÌNH RA CHO DÂN NGOẠI

Lam Thy

Lần tỏ mình đầu tiên của Hài nhi Giê-su không chỉ giới hạn nơi hang đá Bê-lem (qua nhạc ca tưng bừng cũng như lời loan báo mầu nhiệm Giáng Sinh của các thiên thần, quy tụ mục đồng và chiên lừa tới thở hơi ấm và triều bái Người), mà còn – qua vì Sao Tinh Yêu diệu kỳ – soi đường dẫn lối 3 nhà đạo sĩ từ phương Đông đem vàng hương mộc dược tới bái kiến nữa. Đó là chưa kể ngay khi mới hình thành bào thai trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria, Đức Giê-su Thiên Chúa đã tỏ mình ra khiến một bào thai mới được 6 tháng (Gio-an Tiền Hô) đã nhảy lên mừng rỡ trong bụng người chị họ Ê-li-za-bet, đồng thời với lời chúc mừng của người chị họ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 2, 42-45).

Nhiều người cho rằng Chúa chỉ tỏ mình ra cho 3 nhà đạo sĩ, còn đối với dân Do Thái (cụ thể là dân thành Giê-ru-sa-lem) và nhất là vua-sát-thủ-Hêrôđê thì không có được vinh dự đó. Thực ra, Chúa đã tỏ mình ra cho tất cả mọi người, nhưng vấn đề đặt ra là khi thấy dấu chỉ hiển linh đó, thì con người có tin hay không và đón nhận như thế nào mà thôi. Dân Do Thái mặc dù có bị giao động hoang mang, nhưng đã cứng lòng không tin từ lần tỏ mình đầu tiên cho đến biết bao nhiêu lần khác trong suốt 33 năm Ngôi Lời làm người, để cuối cùng đóng đinh treo Người trên thập giá cho đến chết. Còn Hê-rô-đê thì sao? Khác với nhiều người cho rằng Hê-rô-đê không tin, riêng kẻ viết bài này nghĩ rằng ông ta đã tin lời ba vị đạo sĩ, nên mới “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.” (Mt 2, 3-4). Nếu không tin thì có cần như thế không?

Bình thường, khi nghe hỏi “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?”, ai cũng nghĩ rằng đó là chuyện hoang đường, vì đối với xã hội loài người, làm gì có người mới sinh ra đã là vua? Nhưng Hê-rô-đê thì lại tin rằng thực sự đã có một ông vua mới sinh, và vì mới sinh đã là vua nên tất nhiên phải là một vị vua quyền lực thượng đẳng có thể làm cho Hê-rô-đê trắng tay. Vậy phải bằng mọi cách trừ khử ngay lập tức từ trong trứng nước kẻ đã dám đe doạ ngai vàng của mình sụp đổ. Tất yếu cơn thịnh nộ của hung thần sát thủ sẽ vô cùng khủng khiếp, hàng loạt hài nhi đã bị tru diệt thẳng tay. Thế đấy! Từ vua quan đến sĩ thứ của một dân được coi là “hàng nội 100%” đã đón tiếp Đức Vua Hoà Bình như vậy đó.

Và có lẽ cũng vì thế, nên vì tình yêu bao la không phân biệt nội hay ngoại, Thiên Chúa đã dùng vì Sao Tình Yêu để “tỏ mình cho dân ngoại”. Ba vị đạo sĩ bằng sụ hiểu biết của mình, đã được chiêm ngắm vì Sao đó, và với tâm đia ngay thẳng bộc trực, đã vô tình chọc giận hung thần Hê-rô-đê; nhưng mặt khác lại chứng tỏ cho thiên hạ (kể cả Hê-rô-đê) biết thực sự đã có một vị Con Trời và là Ông Trời thật, giáng trần. Ngày xưa vẫn gọi vua là Thiên tử (con Trời), mà vị Vua ấy sinh tại Do Thái nên mới gọi là Vua Do Thái, chớ thực ra vị Vua ấy không phải là Vua Do Thái theo cách hiểu hạn hẹp của Hê-rô-đê (nói chung là của loài người). Người là Vua, mà còn là Vua trên hết các vua trần gian nữa, bởi “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18, 36).

Con người luôn có niềm tin, có tin thì mới sống được. Chính vì thế, nên cần phải xét xem niềm tin đó được thể hiện như thế nào. Tin có một vị vua mới sinh sẽ làm mất ngôi vị độc tôn của mình như Hê-rô-đê để rồi trở thành kẻ sát nhân máu lạnh khủng khiếp; tin rằng vì vua ấy sẽ làm đảo lộn sinh hoạt xã hội như dân Do Thái để rồi hoang mang lo sợ và cách này cách khác tiếp tay cho hung thần Hê-rô-đê giết chết đối tượng mà mình đã tin; hay nên tin rằng đó là vị Vua Công Chính, là Cứu Chúa sinh ra để cứu độ nhân loại như 3 vị đạo sĩ phương Đông? Đặt giả thử nếu 3 vị đạo sĩ cũng bán tín bán nghi như dân Do Thái, thì ánh sao lạ có lôi cuốn được hay không? Chắc chắn đó phải là 3 chiêm tinh gia (biết ngắm sao, biết xem sao) đã tìm hiểu, đã biết và đã tin, và chỉ có như thế thì mới cất công mang vàng, nhũ hương, mộc dược lặn lội từ phương Đông tới để được triều bái Người.

Tỏ mình ra cho một dân (dân “nội” đàng hoàng) đã luôn miệng huênh hoang kêu “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để phô trương niềm tin của mình, nhưng thực chất thì chỉ là “thùng rỗng kêu to” mà thôi. Đừng trách chi tầng lớp bình dân của dân nội (Do Thái), mà ngay cả đến hàng ngũ trí thức, lãnh đạo chỉ chuyên “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” như đám thượng tế, kinh sư cũng cách này cách khác cố tình không nhận ra dấu chỉ tỏ mình của Con Thiên Chúa. Hoá cho nên Thiên Chúa đã dùng ngôi sao Tình Yêu Bê-lem để “tỏ mình ra cho dân ngoại”. Vương quốc của Vương Nhi Giê-su không bó gọn trong phạm vi Do Thái, mà là “Trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3, 6). Như vậy thì ngôi sao Bê-lem đã báo Tin Mừng về mầu nhiệm Tinh Yêu được thực hiện khi “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại” và đó chính là dấu chỉ mầu nhiệm Giáo hội trong tương lai.

Cách đây hơn 20 thế kỷ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tỏ mình ra và được đón tiếp bằng nhiều cung cách: 3 nhà đạo sĩ, các mục đồng tới tung hô triều bái, thậm chí đến cả động vật như chiên lừa cũng tới để thở hơi ấm cho Vương Nhi Giê-su; nhưng vua quan sĩ thứ của Do Thái thì lại hoang mang lo sợ cho địa vị của mình mà lùng giết Hài Nhi. Tưởng chừng như thế thì không còn lý do gì để Thiên Chúa tỏ mình ra nữa, nhưng không, hoàn toàn không, Thiên Chúa vì tình yêu, vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại bằng nhiều hình thức, nhiều dấu chỉ. Chúa đã tỏ mình ra với loài người, với thế giới qua vẻ đẹp của vũ trụ, qua những khám phá, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, qua rất nhiều phép lạ cứu chữa những bệnh nhân, kể cả những người tội lỗi. Không những thế, Người còn tỏ mình ra qua những cử chỉ, những thái độ thành tâm thiện chí của con người, những tấm lòng bác ái, những tổ chức từ thiện trên khắp mặt đất.

Chúa vẫn đi tìm con người hơn là con người đi tìm Chúa. Và con người ngày nay đã đón tiếp vị Cứu Chúa như thế nào so với thời điểm tỏ mình ra đầu tiên của Người? Cũng có đủ trạng thái không thua gì ngày xưa: Tuy Giáo hội của Chúa đã lan toả khắp năm châu bốn biển, nhưng tỉ lệ những người tin vẫn là thiểu số so với dân số thế giới; vẫn còn nhiều những dân ngoại (kể cả dân nội “marque déposée” – nhãn hiệu trình toà – đàng hoàng) hoang mang lo sợ, nhưng lại thờ ơ trước những dấu chỉ, những biến cố mình chứng sự hiện diện của Chúa trên trần gian; rồi cũng còn nhiều lắm những sát-thủ-Hêrôđê-thời-đại cách này cách khác lùng giết Hài nhi Giê-su, đóng đinh Cứu Chúa trên thập ác: Hủy diệt trứng tinh trùng, chiến tranh, khủng bố… giết hại những con người giống với Thiên Chúa (St 1, 26-27) thì khác nào lùng giết chính Thiên Chúa.

Ôi! Lạy Chúa Hài Đồng! Như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 5 thế kỷ trước khi Chúa tỏ mình ra tại Bê-lem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi.” (Is 60, 1); chúng con biết chắc chắn rằng “ánh sáng của chúng con đã đến rồi” không chỉ bằng vì Sao Tình Yêu Bê-lem, mà bằng chính Ngôi Lời nhập thể và nhập thế làm người cứu chuộc chúng con thoát vòng tội lỗi để có thể chiến thắng sự chết. Không chỉ cách đây hơn 2000 năm, mà hàng ngày, hàng giờ, Chúa vẫn luôn tỏ mình ra ngay tại cung lòng chúng con, trong gia đình, khu xóm, giáo xứ cũng như trên đất nước chúng con, Ánh Sáng vẫn luôn chiếu toả chúng con. Thật đáng tiếc là chúng con vẫn chưa thực sự cảm nghiệm và thực hành Lời Chúa dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5, 15-16), để được như ngôi Sao Bê-lem hiển linh Tình Yêu của Chúa.

Ôi! Lạy Chúa! Con ước ao được là một vì sao thật nhỏ bé (nhưng là bản sao trung thực nhất của Sao Tình Yêu Bê-lem) ở ngay trong gia đình con, để dẫn đường chỉ lối cho con cháu của con biết tìm về chính lộ: nơi đang sáng tỏ mầu nhiệm Giáng Sinh trong mầu nhiệm Giáo hội. Và nếu con còn một chút sức lực nào đó, xin cho con được làm một vì sao bé nhỏ trong khu xóm, trong giáo xứ của con nữa. Xin Chúa thương ban Thần Khí cho con để con có thể làm tròn trách vụ một vì sao Ki-tô hữu trong thời buổi nhiễu nhương, vàng thau lẫn lộn này. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

 

 

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Lm Đinh Quang Thịnh

Lễ Giáng Sinh được xem như ơn cứu độ của Thiên Chúa chỉ ban riêng cho dân Do Thái, nhưng qua biến cố Hiển Linh, mới thấy Thiên Chúa không chỉ thương riêng dân Ngài chọn, mà còn hướng dẫn muôn dân đến với Ngài,nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ. Vì thế Hội Thánh Đông Phương mừng lễ Hiển Linh lớn hơn lễ Giáng Sinh.

Tuy lễ Hiễn Linh nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát : Thiên Chúa muốn cứu độ cả loài người. Nhưng không phải ai cũng đi tìm Chúa như ba đạo sĩ. Ba đạo sĩ có người hiểu đó là tượng trưng cho ba người con của ông Noe là Sem, Kham và Giaphet, thủy tổ của loài người sau trận lụt Hồng Thủy (x St 5,32). Do đó thánh Phaolô nói : “Các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (x Bài đọc II : Ep 3,6). Nhưng bất cứ ai muốn tìm gặp Thiên Chúa Cứu Độ, thì dựa vào các Bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay ta tìm thấy bảy điểm giáo lý phải đem ra thực hành :

1/ PHẢI TỪ BỎ HẤP LỰC TRẦN THẾ.

Ba người đi tìm Vua Do Thái mới sinh : Họ là vua ? (Tv 72/71,10) ; hay họ là đạo sĩ? (Mt 2,1). Điều ấy khó ai xác định, nhưng chúng ta biết chắc chắn họ thuộc giai cấp qúy tộc, đại gia, vì họ dâng cho Hài Nhi những báu vật : vàng, mộc dược, nhũ hương (x Mt 2,11: Tin Mừng), khác với các chú mục đồng nghèo nàn, chúng đến gặp Chúa với hai bàn tay trắng, chỉ đưa chiên cừu đến phà hơi ấm cho Hài Nhi (x Lc 2,16). Ba vị này đã ra đi khỏi xứ sở là chấp nhận gác bỏ công việc thường ngày, bỏ nhà cửa, bỏ cha mẹ, vợ con. Nói tắt là bung ra khỏi pháo đài tiện nghi ấm cúng của cuộc sống, để băng mình theo tiếng gọi của lương tri khao khát chân lý. Đúng với giáo lý Đức Giêsu đòi hỏi : “Ai muốn theo Thầy, không được yêu cha mẹ, vợ con, cả mạng sống mình hơn Thầy, và phải từ bỏ của cải, vác thập gía hằng ngày mà theo Thầy !” (Lc 14,25t).

Vậy mỗi ngày ta phải biết từ bỏ những việc không cần thiết, để có đủ giờ chu toàn việc quan trọng, thực hành thời khóa biểu lao động mỗi ngày, giống Đức Giêsu : Ưu tiên cho việc dự Lễ, cầu nguyện, rồi mới sinh hoạt Lời Chúa, sau đó mới bắt tay vào công việc phục vụ những nhu cầu thân xác của đồng loại (x Lc 4,31-44).

2/ TIẾN VỀ GIÊRUSALEM LÀ GIA NHẬP HỘI THÁNH ĐỂ ĐƯỢC DỰ TIỆC THÁNH THỂ.

Ba đạo sĩ theo ánh sao của Hài Nhi tiến về Giêrusalem đồng nghĩa tiến vào Nhà Thờ (Hội Thánh), để dự tiệc Thánh Thể. Đó là một chủ đích Thần học của Tin Mừng Nhất Lãm, đến nỗi ba tác giả Mt, Mc và Lc cho thấy cả Vị sùng đạo như Đức Giêsu, suốt ba năm hoạt động cũng chỉ có một lộ trình tiến thẳng về Giêrusalem, và hiến tế đời mình ở đó, để rồi từ Giêrusalem ánh sáng cứu độ lan tỏa, bao trùm khắp địa cầu, làm cho muôn dân tộc nhìn thấy ơn cứu độ,vì ơn giải thoát khơi nguồn từ Do Thái (x Ga 4,22), cho muôn dân tìm đến Chúa, như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh sáng bình minh của ngươi mà tiến bước” (x Bài đọc I : Is 60,3).

Người Kitô hữu hôm nay, dù đã được đưa vào Hội Thánh, họ vẫn còn trên đường tiến tới Giêrusalem tuyệt hảo ở trên trời, là Nhà đích thực của Thiên Chúa,của những người công chính, được Chiên Con tập họp về (x Kh 21). Thánh Luca ghi nhận : “Chúa Giêsu Phục Sinh chỉ hiện ra cho những người đã từ Galilê lên Giêrusalem với Ngài, đây là những người trở nên chứng nhân của Ngài trước mặt toàn dân’’ (Cv 13,31).

Vậy tôi muốn gặp Chúa Giêsu Phục Sinh để được sự sống dồi dào, tôi phải đi chung tuyến đường truyền giáo với Hội Thánh, nhờ mỗi ngày tiến vào Nhà Thờ hiệp dâng Thánh Lễ, để được Chúa Giêsu ở cùng, Ngài mới giúp tôi làm được những việc như Ngài mà còn làm được những việc lớn lao hơn thế nữa (x Ga 14,12).

3/ ĐI THEO SAO CỦA NGÀI.

“Sao của Ngài” theo truyền thống Kinh Thánh, trong văn hóa Hy-La, ám chỉ đến bậc vĩ nhân,như ngôi sao sinh nhật của ông Abraham,ngôi sao hộ mệnh của hoàng đế Alexandre, của hoàng đế Augusto. Nhưng ngôi sao của Hài Nhi còn trổi vượt hơn nữavì là dấu nhận ra Đấng Mêsia (x Ds 24,17), dấu chỉ nhận biết Thiên Chúa (x Is 14,13). Ngôi sao của Ngài xuất hiện bên trời Đông. Ngôi sao ấy lại chẳng phải là Mặt Trời Công Chính sao? Thật đầy ý nghĩa khi người Kitô hữu mỗi sáng bắt đầu đi vào ngày mới, trong gìơ Kinh Sáng, họ cất lời cầu : “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, đã viếng thăm cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Đavid, Người đã cho xuất hiện, Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta. Ngài sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm.” (Lc 1, 68-69.71.74-75.78).

4/ KIÊN NHẪN TRONG THỬ THÁCH.

Đi trong Đức Tin là hành trình thử thách! Ba vị đạo sĩ đang hứng khởi tiến về Giêrusalem theo ánh sao, thình lình ngôi sao vụt tắt, họ bối rối…, nhưng không chùn bước quay về, họ kiên nhẫn đi dò hỏi, họ không dò la ngoài đường, giữa chợ, trong quán, mà đi thẳng vào đền vua, là tìm đến người khôn ngoan xin ý kiến (x Tb 4,18).Tuy khôn ngoan như vua, thì lãnh vực Đức Tin, lãnh vực tôn giáo phải tìm đến hỏi người chuyên môn về tôn giáo. Đó là lý do vua triệu tập các thượng tế và ký lục, để có câu trả lời : “Vua người Do Thái mới sinh ở đâu ?” Nhưng các vị này cũng bó tay, trừ khi họ mở Sách Thánh cho biết rằng : “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì có lời chép : phần ngươi hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” ! (Mk 5,1 = Mt 2,5-6 : Tin Mừng)

Đời người Kitô hữu nào mà chẳng có lúc gặp thử thách về Đức Tin! Hãy bắt chước các đạo sĩ, tìm đến người khôn ngoan mà bàn hỏi. Nhưng chẳng ai cho ta lời khôn ngoan, chẳng ai soi sáng hướng dẫn ta đi đúng đường, nếu lời ấy không bắt nguồn từ Kinh Thánh.

5/ MUỐN GẶP CHÚA, HÃY TIẾP ĐÓN KẺ BÉ MỌN.

Ba đạo sĩ hỏi : “Vua Do Thái mới sinh ở đâu ?” (x Mt 2,2 : Tin Mừng). Nhưng họ đâu có đi tìm vua Do Thái như nhiều người lầm tưởng, bằng chứng là Hêrôđê, vua Do Thái đang hiện diện trước mặt, mà họ không tỏ một cử chỉ thần phục nào và chẳng dâng gì cho vua. Thế nhưng, khi gặp Hài Nhi khó nghèo, họ đã phục mình triều bái Ngài và dâng cho Ngài những báu vật (x Mt 2,11 : Tin Mừng).

Như thế đi tìm vua Do Thái chính là tìm Chúa của muôn dân (cử chỉ bái phục chỉ dành riêng cho Thiên Chúa), nhưng Chúa lại cho ta gặp người bé mọn nghèo hèn!

Vì thế, trong ngày cánh chung,Chúa xét xử nghiêm khắc kẻ khước từ nhu cầu của kẻ bé mọn là chối từ chính Chúa Giêsu (x Mt 25,31-46).

Vậy ta phải đầu tư mọi khả năng đang có làm cho đồng loại gia nhập Hội Thánh để được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12). Vì thuật ngữ “Kẻ bé nhỏ” ám chỉ người Công Giáo (x 1 Ga 2,1.12.14.18.28).

6/ THIÊN CHÚA CẦN GÌ NƠI TA ?

Xưa người ngoại không biết ý Chúa, nên họ dâng cho Ngài vàng, nhũ hương và mộc dược ; còn ta đã hiểu ý Chúa nói : “Dương gian muôn vật hết thảy đều là của Ta ” (Tv 51/50,8). Vậy, Ngài cần gì nơi ta? Vì “Chúa Giêsu vừa là Tư Tế, vừa là Ngôn Sứ, vừa là Vương Đế“, nên thánh Giám mục Chrysologo nói :

a-Tư tế cầu nguyện cần có hương : Chúa Giêsu muốn ta lòng cậy vững vàng được thể hiện bằng việc cầu nguyện không ngừng (x Lc 18,1). Đó mới chính là hương thơm dâng lên trước nhan Chúa : Tư tế nào mà lại không cần có hương để dâng ; còn Tư Tế Giêsu lại cần ta có hương lòng tin yêu, cậy trông nơi Ngài. Vì thế thánh Tông Đồ nói : “Chúng tôi là hương thơm của Đức Kitô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất.” (2Cr 2,15).

b- Ngôn sứ nào cũng bị giết, cần mộc dược để ướp xác : Chúa Giêsu thèm ta lòng mến phục vụ tha nhân, như Ngài đã hiến cả mạng sống vì yêu ta (x Ga 15,13), để trở nên men muối cho đồng loại (x Mt 5,13t). Đó mới chính là mộc dược “ướp” tha nhân khỏi hư thối, cũng chính là ướp chi thể của Đức Giêsu khi bị trù dập : Vì số mệnh ngôn sứ của Đức Giêsu đâu có an toàn hơn số mệnh các ngôn sứ khác đã bị sát hại! Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trong dụ ngôn vườn nho : Chủ vườn nho sai các đầy tớ đến, nhưng các tá điền đánh người này, giết người kia, cuối cùng chủ vườn nho sai con một đến, chúng cũng giết và lôi ra khỏi thành ! (x Mt 21,34-39)

c- Vua nào cũng muốn được giàu có : Cần vàng bạc châu báu : Vua trần thế cần vàng bạc châu báu ; còn Vua Giêsu cần tấm lòng vàng của ta thể hiện bằng việc lành (x Gc 2,14).

7/ CHỨNG NHÂN CỦA THIÊN CHÚA.

a- Mỗi năm dự Lễ Hiển Linh, đời sống ta phải được canh tân vươn lên thiện hảo.

Ba đạo sĩ khi đã được gặp Chúa, họ được mộng báo : “Đừng trở lại với Hêrôđê, nhưng hãy qua đường khác mà về quê mình” (x Mt 2,12).

  • Đừng trở lại với Hêrôđê” : Vua Hêrôđê rất qủy quyệt, gian ác, đời ông luôn luôn bị ám ảnh mất vương quyền do đế quốc Roma trao. Vì nghi ngờ cả những người trong gia đình âm mưu tiếm ngôi vua, nên ông đã không ngần ngại giết luôn ba người con trai, mẹ vợ và cả vợ ông !? Vậy đừng trở lại với Hêrôđê, nghĩa là khi ta đã được biết Chúa, thì đừng trở lại con đường gian ác, mưu mô, quỷ quyệt để tìm danh lợi cho mình. Nhưng
  • Đi đường khác mà về quê” : Quê thật của người Ktô hữu là Nước Trời. Do đó, kẻ sau khi đã được gặp Chúa,hãy đi đường khác, là đường tìm ý Thiên Chúa để thông hiệp với Ngài, đường công bình, bác ái để hiệp thông với tha nhân, như vậy ta mới về tới Quê thật là Nước Trời, và ta còn trở nên dấu chỉ cho lương dân đi tìm chân lý, như lời thánh Phaolô nhắc nhở : “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, ANH EM PHẢI CHIẾU SÁNG NHƯ NHỮNG VÌ SAO TRÊN VÒM TRỜI,LÀ LÀM SÁNG TỎ LỜI BAN SỰ SỐNG!” (Pl 2,15-16a) .

Thế thì mỗi năm dự lễ Hiển Linh, ta phải xin Chúa giúp ta tấn công chừa một thói xấu làm ray rứt lòng ta nhất, ít là thêm lòng sám hối, thể hiện bằng gia tăng việc lành (x Mt 3,8).

b- Ta không được thua ba đạo sĩ ngoại giáo

Qua biến cố Hiển Linh, ta thấy một thảm kịch : Trong số những kẻ tự hào là dân Chúa chọn, tự hào là người thông suốt Lời Chúa, như tư tế và ký lục, lại tỏ ra thờ ơ lãnh đạm trước lời dân ngoại (ba đạo sĩ) đến loan báo Tin Mừng: “Vua Do Thái mới sinh hiện ở đâu?” (Mt 2,2 : Tin Mừng).Người Do Thái có đạo mở Thánh Kinh lại chỉ cho cáo già Hêrôđê tìm giết Hài Nhi ! Còn dân ngoại (ba đạo sĩ) đến “Bêlem” thờ lạy Hài Nhi. Chính những kẻ ôm Sách Thánh lại không ai tung cửa chạy đến cùng Ngài ! Điều quan trọng không phải biết Thánh Kinh để chỉ cho người khác, mà còn phải liều mạng lên đường theo điều đã biếtđã tin, để tìm đến nguồn sống, vượt qua kiến thức bên ngoài, ngõ hầu nhìn thấy giá trị bên trong. Nếu không ta làm thầy dạy cho người khác, mà cuối cùng chính ta lại bị Chúa thải loại (x 1Cr 9,27). Thánh Phaolô còn nói : “Bạn tự hào có Kinh Thánh để dạy người nào, mà bạn lại làm nhục Thiên Chúa” (Rm 2,23).

Dĩ nhiên, đi tìm Chúa vẫn chỉ là tìm thấy Ngài qua dấu chỉ ! Thực vậy, ba đạo sĩ đi tìm vua lại gặp Hài Nhi nghèo khó nằm trong máng cỏ (x Lc 2,7), đó là dấu chỉ Vua trời đất vốn dĩ là Đấng giàu sang, nhưng vì chúng ta Ngài đã trở nên nghèo, cho chúng ta được giàu có (2Cr 8,9). Bởi đó “con người được Thiên Chúa chúc phúc, không phải chỉ khi nào họ gặp thấy Ngài, mà được phúc ngay khi họ đi tìm Ngài” (Kierkegaad).

Con đường Đức Tin bao giờ cũng nhiều trắc trở, nên ta phải nắm chắc ba điều sau đây :

  • Tìm dấu chỉ ngay trong sinh hoạt cuộc sống : mục đồng qua tiếng hát, đạo sĩ qua dấu ánh sao, tư tế qua Kinh Thánh.
  • Xem dấu chỉ ấy liên hệ với đời sống Đạo như thế nào ? Ví dụ : Ta là học sinh, học văn hóa vất vả, thì phải học Lời Chúa cũng không kém vất vả ; ta mải miết tìm kiếm của nuôi thân xác thì cũng phải gia công tìm kiếm của nuôi linh hồn nơi tiệc Thánh Thể ; là tài xế, qua việc đón đưa khách, ta còn nhiệm vụ đưa họ gặp Thiên Chúa qua cách sống của ta ; ta là phu quét rác, thì hãy lo dọn tâm hồn mình sạch tội nhờ lãnh Bí tích Giao Hòa.
  • Và thể hiện Lời Thánh Kinh trong cách ta phục vụ tha nhân, tiến tới liên kết mọi người nhờ, với, trong Đức Giêsu mới làm vinh hiển Thiên Chúa (x Rm 11,36).

Truyện kể.

Vị đạo sĩ thứ tư rất giàu có, thấy ba vị đạo sĩ lên đường đi tìm Chúa, ông cũng bỏ vào túi hành trang của mình nhiều báu vật. Khi ông đang đi chung đường với ba đạo sĩ kia, ông gặp một bệnh nhân nghèo, ông đưa người ấy vào nhà thương chăm sóc, ông trả tiền cho người chăm sóc người bệnh, rồi ông lại tiếp tục lên đường. Nhưng ông đã bị lạc mất ba đạo sĩ bạn, có lẽ vì họ không thể chờ ông lâu như thế. Vậy là vị đạo sĩ này phải đi lang thang một mình, trên đường đi, ông đến một cộng đoàn, không ai dạy giáo lý, nên dừng lại ở đó lâu ngày để dạy đạo, cả lương dân cũng tuốn đến học.

Cứ bận rộn như thế, mãi 33 năm sau ông mới tới được Giêrusalem, nhưng chẳng biết Vua Do Thái, Vua vũ trụ ở đâu, ông chỉ thấy đám đông đang nghe một người đang thuyết giảng ở quảng trường Giêrusalem. Người ta động viên ông đến gặp người giảng (ông Phêrô). Thế là vị đạo sĩ được ông Phêrô dẫn vào Nhà Thờ, và dạy cho ông biết tấm bánh tuy nhỏ bé tầm thường, nhưng đó chính là Vị Vua mà ông đang tìm kiếm suốt mấy chục năm qua, ông liền quỳ xuống sụp lạy tin nhận Ngài là Đấng cứu độ muôn dân.

Đang lúc ấy, những người đã thụ ơn ông trong 33 năm qua, họ tìm gặp ông để tỏ lòng biết ơn. Nhưng ông bảo họ : “Hãy quỳ xuống tạ ơn Chúa của các bạn, qua tấm bánh tầm thường này, chính Ngài đã đưa tôi đến để giúp các bạn !” Và mọi người đều quỳ thờ lạy Chúa. Đó là 3.000 người được ông Phêrô ban Bí tích Thánh Tẩy cho (x Cv 2,41).

Vậy :

  • Ông Phêrô nhờ Lời Chúa đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho đạo sĩ thứ tư.
  • Còn ông đạo sĩ thứ tư tận tình giúp đỡ đồng loại, ông đã trở thành ánh sáng dẫn đường cho “muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài” (Tv 72/71,11 : Đáp ca). Vì chính ông đã nói : “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện ở phương Đông, nên chúng tôi đến triều bái Ngài” (Mt 2,2 : Tung Hô Tin Mừng).

Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 nói: “Chẳng cần lý thuyết nhiều,nếu đời sống các Kitô hữu đủ sắc nét diễn tả người Công Giáo trong Chúa Giêsu, thì sẽ không còn dân ngoại nữa”.

 

 

VUA KHÔNG NGAI VÀ XEM THƯỜNG QUYỀN LỤC

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

” Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu?

Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông,

nên chúng tôi đến bái lạy Người.”

  1. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):

(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao.(4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) ‘Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”

(7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở Phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

  1. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):

Chú thích: Có nhiều hướng suy niệm Lời Chúa của Lễ Hiển Linh hay Ba Vua:

– Chúng ta có thể suy niệm theo cách ”truyền thống” là suy niệm về việc Chúa Giê-su Ki-tô Thiên Chúa làm người tỏ mình ra cho dân ngoại mà ba vua đến từ Phương Đông là ba nhân vật biểu trưng. Hướng suy niệm này giáo dân đã rất quen.

  • Chúng ta cũng có thể suy niệm theo cách ”cách tân” là suy niệm về cách thể hiện quyền bính của Vua Giê-su Ki-tô. Cách suy niệm này rất mới, mang tính cách mạng, nhưng rất phù hợp với truyền thống Thánh Kinh. Tôi dề nghị cách suy niệm thứ hai này vì ngày nay trong Đạo và nhất là ngoài đời nhiều người có quyền (chức) không hiểu ý nghĩa thâm sâu của quyền bính nên đã phạm phải những tội ác tầy trời.

2.1 Chúa Giê-su Ki-tô là Vua dân Do-thái và là Vua muôn dân:

Văn hào George W. Truett đã viết một câu bất hủ về Chúa Ki-tô như sau: “Christ was born in the first century, yet he belongs to all centuries. He was born a Jew, yet He belongs to all races. He was born in Bethlehem, yet He belongs to all countries.”

(Tạm dịch: “Đức Ki-tô sinh ra vào thế kỷ thứ nhất, nhưng Người thuộc mọi thế kỷ. Đức Ki-tô sinh ra là một người Do-thái, nhưng Người thuộc mọi chủng tộc. Đức Ki-tô sinh ra ở Bê-lem, nhưng Người thuộc mọi quốc gia”).

Chúng ta có thề thêm một ý nữa vào câu nói trên: “Đức Ki-tô là vua dân Do-thái nhưng cũng là vua của muôn dân.”

Cả Thánh Kinh Cựu Ước (nhất là Sách các Ngôn Sứ) lẫn Thánh Kinh Tân Ước (nhất là 4 Phúc âm) đều nói về Đức Giê-su Ki-tô là vua dân Do-thái và vua muôn dân.

2.2  Đức Giê-su là Vua không ngai, không đền đài, không quyền lực, không binh lính bảo vệ, không người hầu kẻ hạ như vua Hê-rô-đê và các vua khác: Đức Giê-su vua dân Do-thái nhưng không sinh ra trong đền đài, không ngai vàng ở Giê-ru-sa-lem, không có kẻ hầu ngưởi hạ như vua Hê-rô-đê, không binh lính bao quanh, không quyền lực. Ngài sinh ra trong máng cỏ bò lừa vùng Bê-lem. Bên cạnh Ngài là cha mẹ và những con vật. Thượng khách của ngài là những người chăn chiên và ba vua đến từ Phương Đông. Mặc dù thế, nhưng vua Hê-rô-đê lại rất sợ Ngài nên tìm cách giết hại Ngài.

Sau này Vua Giê-su thể hiện vương quyền của Ngài một cách không ai ngờ”

* trước tòa Phi-la-tô: Vua Giê-su hai tay bị trói, đầu đội mạo gai, mình mặc áo đỏ;

* trên thập giá: Vua Giê-su tay chân bị đóng đinh vào cây gỗ, không mảnh vải che thân.

2.3 Đức Giê-su là Vua không có vàng bạc châu báu như các vua trần thế: Đức Giê-su là vua dân Do-thái và vua muôn dân nhưng không có vàng bạc châu báu trong kho. Thậm chí Ngài không có cả cái nhà để ở. Ngài đúng là vua ”vô gia cư” (homeless). Ngài nhận vàng, nhũ hương và mộc dược của ba vua đến từ Ph: ương Đông, vì quả thật Ngài là vua và sau này Ngài sẽ được xức dầu và mai táng trong mồ.

III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):

3.1 Trong truyền thống Thánh Kinh Do-thái và Ki-tô giáo, vua là người phục vụ dân và lo cho hạnh phúc của dân

Đọc lịch sử Ít-ra-en, chúng ta thấy Thiên Chúa đã cương quyết chống lại đề nghị của dân Do-thái muốn Ngài cho phép họ lập vua như các dân xung quanh. Ý của Thiên Chúa là dân Chúa không có vua nào khác ngoài Thiên Chúa. Có thể nói Thiên Chúa đã miễn cưỡng chiều theo ý muốn của dân Ít-ra-en là có vua cai trị họ. Nhưng Thiên Chúa đã cảnh cáo họ về những cách mà các vua Ít-ra-en sẽ bóc lột dân, bắt dân phải phục vụ mình như thế nào.

3.2 Tiếp nối truyền thống ấy của Thánh Kinh Cựu Ước, Vua Giê-su Ki-tô đã khai mở một cung cách lãnh đạo mới: ”Lãnh đạo tôi tá (servant leadership)”

  1. a) Vua Giê-su đã khai mở một phong cách lãnh đạo mới: ”lãnh đạo tôi tớ”. Lãnh đạo tôi tớ là hy sinh từ bỏ bản thân và quyền lợi riêng để lo cho tha nhân và xã hội. Từ bỏ càng nhiều thì càng giống Vua Giê-su Ki-tô. Hình ảnh biểu trưng của phong cách lãnh đạo này là hình ảnh Đức Giê-su (quỳ hay cúi xuống) rửa chân cho các tông đồ. Tiếc là rất nhiều người có quyền chức không hề biết đến hoặc xem thường phong cách lãnh đạo này của Vua Giê-su!
  2. b) Quả thế rất nhiều người vì say mê chức quyền và địa vị mà sống vô đạo đức: Những vụ án tham nhũng và gian lận hàng ngàn tỷ đồng của một số cán bộ Nhà Nước Việt Nam trong mấy năm qua cho chúng ta thấy ”quyền” gắn liền với ”tiền” như thế nào và tác hại ra sao trên đời sống kinh tế của đất nước và đời sống đạo đức của xã hội. Đúng đồng tiền (mammon) là ”đầy tớ” hữu dụng nhưng lại là ”ông chủ” tàn ác.
  3. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (2,1-12):

Lạy Vua Giê-su Ki-tô, Ngài là Vị Vua không ngai vàng, không quyền lực; nhưng Ngài ngự trị tâm hồn của tất cả những con người thành tâm thiện chí. Ngài cai trị thế giới và loài người bằng tình thương và công lý. Ngài chinh phục mọi người bằng lối sống tự hạ và khiêm nhu. Ngài lôi kéo chúng con bằng cách phục vụ hy sinh quên mình, tự hạ và tự hủy. Chúng con chúc tụng ngợi khen và tạ ơn Ngài.

Xin Vua Giê-su ban cho chúng con tinh thần và lối sống của Ngài, để chúng con phục vụ tha nhân và xã hội và đem nhiều người về với Vua của Tình Thương. Amen.

 

 

SUY NIỆM LỄ CHÚA HIỂN LINH

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng ngày lễ Hiển Linh ghi lại biến cố ba đạo sĩ đi tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới sinh nơi hang đá Bêlem và trình bày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà đại diện là ba đạo sĩ bên phương Đông. Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người không phân biệt lương giáo. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là những anh em lương dân đến bái lạy, tin nhận Đức Giêsu là Đấng Messia (đại diện là 3 vua). Còn dân Do Thái đã từ chối không tin nhận Ngài: Vua Hêrôđê mưu tính giết Ngài, dân thành Giêrusalem thì bối rối, hoảng hốt, lo sợ!

Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm Chúa với biết bao nhiêu vất vả, cực khổ, khó khăn: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua sa mạc với khí hậu vô cùng khắc nghiệt ngày nóng cháy da, đêm lạnh buốt thấu xương… Ánh sao dẫn lối cũng biến mất. Các ngài không thất vọng bỏ cuộc, không nản chí sờn lòng, quyết đi tìm, hỏi han, thăm dò. Điều đáng chú ý không phải là những kinh sư, luật sĩ, thượng tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ: “Vua dân Do Thái mới sinh ra, hiện đang ở đâu?”. Nhưng chính là sự chỉ dẫn của Thánh kinh: ”Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh, Đấng chăn dắt Israel”.

Qua sự chỉ dẫn của Thánh kinh, họ tiếp tục lên đường nhắm thẳng hướng Bêlem và họ đã thành công: “Họ đã gặp thấy Hài Nhi và Mẹ Maria, Mẹ Người. Họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược”.

Bằng hành vi bái lạy với lòng tôn kính và dâng lễ vật cho Chúa Hài Nhi, các nhà đạo sĩ đã tin nhận Hài Nhi Giêsu là Đấng Messia, là vua và là mục tử của muôn dân.

Tin mừng cũng cho thấy thái độ khác nhau của con người đối diện Chúa Giêsu, Đấng Messia:

– Ba nhà đạo sĩ nhìn nhận Đức Giêsu là vua Messia trong tâm tình hân hoan và thờ lạy: “Họ bái thờ Người”.

– Các thượng tế và luật sĩ thì thờ ơ, lãnh đạm, bối rối không quan tâm.

– Vua Hêrôđê lo sợ về ngai vàng của mình khi các đạo sĩ hỏi: “Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu?”. Vì ham quyền, ham danh vọng, địa vị mà Hêrôđê đã điên cuồng chống phá, bách hại, tìm giết Hài Nhi.

Cuộc hành trình đi tìm gặp Chúa Giêsu Hài Nhi của ba nhà đạo sĩ cũng là cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu hôm nay. Cuộc lữ hành trần gian là hành trình đi tìm gặp Chúa, gặp Đấng Messia để được ơn cứu độ. Cũng như xưa, cuộc hành trình của ba nhà đạo sĩ được khởi sự từ sự thúc đẩy thực tế là ánh sao lạ, được chỉ dẫn bởi Thánh kinh và một đức tin mạnh mẽ, đơn sơ, chân thành. Cuộc hành trình ấy cũng là con đường tìm đến với Đức Kitô, đấng cứu độ duy nhất của nhân loại hôm nay, của người Kitô hữu chúng ta:

“Lời Người là ánh sáng đời con

Lời người làm chúa chan hy vọng

Là đường để con hằng dõi bước

Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời

Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai”

Với niềm tin vững mạnh và sự chỉ dẫn của Lời Chúa, chúng ta mới có thể tìm gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.

 

 

ÁNH SAO LẠ

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu chúng ta. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.

Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

–  Lạy Chúa chúng con có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.

–  Lạy Chúa cộng đoàn chúng con có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng con chưa nêu gương sáng cho nhau trước mặt mọi người.

–  Lạy Chúa chúng con có vì đã không quan tâm đến việc tìm ý Chúa qua những dấu chỉ hằng ngày.

III. GIẢNG 

Bài Tin mừng hôm nay nói cho chúng ta biết rằng khi Chúa Giêsu giáng sinh trong hang đá Belem thì có một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.

Hẳn là đã có nhiều nguời thấy ánh sao lạ, nhưng tại sao chỉ có mấy đạo sĩ đã nhận ra đó là “tín hiệu” loan báo Chúa Cứu thế giáng sinh.

Con trẻ sinh ở Bêlem hẳn nhiều người đã thấy hoặc đã biết, nhưng chỉ có mấy đạo sĩ nhận ra rằng trẻ sơ sinh đó chính là Con Thiên Chúa làm nguời. Bởi thế họ quỳ xuống dâng lễ vật và thờ lạy. Tại sao thế?

KẺ THẤY NGƯỜI KHÔNG 

Đứng trước cùng một sự kiện mà có kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Vậy thì làm sao mà cắt nghĩa được sự khác biệt đó?

Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn bằng con mắt thường một bên nhìn bằng đức tin. Bên nhìn bằng con mắt thường thì chỉ thấy những việc thông thường, còn bên nhìn bằng con mắt đức tin thì nhờ đức tin mà khám phá ra được thực chất và ý nghĩa ở bên trong.

Một buổi trưa hè nóng bức, thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.

Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.

Sự vật thay đổi diện mạo và ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mức độ quan sát của mỗi người. Cùng một giọt máu nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy màu đỏ, còn quan sát bằng kính hiển vi thì có thể đếm được hồng cầu và bạch cầu. Đức tin cũng giống như một thứ kính hiển vi. Nó giúp cho người ta thấy rõ hơn, lớn hơn, thật hơn. Bởi thế đức tin là một sự khám phá, một cái nhìn tinh tế theo chiều sâu, một thứ ánh sáng cực mạnh dọi vào sự vật giúp ta nhìn thấy tận bên trong. Chính vì các đạo sĩ có lòng tin nên đã nhận ra Con Thiên Chúa trong khi những người khác chỉ thấy một trẻ thơ.

KINH NGHIỆM NỘI GIỚI 

Như vậy thì đức tin có phải là cái gì hoàn toàn chủ quan không? Người tin có phải chỉ là một người bị ám ảnh bởi một đối tượng do chính mình tưởng tượng ra?

Đức tin thật ra không hoàn toàn khách quan mà cũng không hoàn toàn chủ quan.

Không hoàn toàn khách quan vì những điều người tín hữu tin không thể cân, đo, đong, đếm được. Không thể chứng minh bằng lý luận như một bài toán hay một định luật khoa học, không thể viết thành công thức đưa vào máy điện toán để kiểm chứng. Tin là một xác tín cá nhân chỉ chắc chắn cho chính người tin.

Nhưng đức tin cũng không hoàn toàn chủ quan vì không phải chỉ có một người tin nhưng hằng bao nhiêu tỷ người thuộc các thế hệ cùng tin. Và những người tin này đều lành mạnh, tỉnh táo, sáng suốt, trong đó có biết bao nhiêu nhà bác học hàng đầu của thế giới. Ở thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn đã có tới 357 Kitô hữu.

Thực ra đức tin là một thứ kinh nghiệm nội giới độc đáo có tính riêng tư. Trong lãnh vực tôn giáo, mỗi người phải cảm nghiệm cho mình bằng tâm hồn. Tự chúng, những thực tại tôn giáo không thế chứng minh được, lý lẽ nào cũng chỉ là gợi ý có tính thuyết phục tương đối. Vì thế mới cần đến chứng tá đời sống. Chính đời sống sẽ biện minh cho những gì không thế giải trình bằng lý luận.

Đức tin cũng giống như cảm hứng và cái nhìn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ hơn người ở chỗ cảm thấy cái đẹp, nhìn thấy cái đẹp, nhận diện được cái đẹp ở những nơi, vào những lúc mà người thường chẳng thấy gì cả. Không thể nói người nghệ sĩ bịa đặt ra một cái gì thực ra không có, nhưng phải nhìn nhận rằng tâm hồn không có tính nghệ sĩ là tâm hồn thiếu nhạy bén. Người có đức tin giống nghệ sĩ ở chỗ tâm hồn cởi mở, nhạy cảm nên nắm bắt, lĩnh hội được cái vô hình. Tâm hồn người tín hữu bắt trúng tần số.

  1. Toliver một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành. Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện. Khi qua cơn nguy biến, đứa bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói:

– Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải  không ba?

LÒNG THÀNH VÀ ƠN THÁNH 

Bởi đâu người có đức tin lại có một cái nhìn thấu suốt như vậy? Có điều kiện nào để con người có thể có được một đức tin trong sáng như thế hay không?

Thưa có. Đó là sự thành tâm thiện chí, sự ngay thật khiêm tốn trong tâm hồn. Thiếu những điều kiện đó đức tin khó có thể nảy sinh.

Tuy nhiên dầu có tất cả những điều đó cũng vẫn chưa đủ. Còn cần có tác động của Chúa trong tâm hồn. Nguồn mạch chính của đức tin là ơn Chúa. Đức tin trước hết là một hồng ân.

Chúng ta tin. Nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể tin. Chính Ngài mở lòng mở trí chúng ta để chúng ta thấy và hiểu. Đức tin là một cuộc hiển linh: Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta được thấy Ngài. Chính Ngài rọi ánh sáng vào lòng chúng ta và rọi ánh sáng trên mọi sự để chúng ta có thể thấy. Lời thánh vịnh 39 thật có ý nghĩa: “Trong ánh sáng của Chúa chúng con nhìn thấy ánh sáng”. Mọi ánh sáng đều bắt ngưồn từ nơi Thiên Chúa.

Như vậy người tín hữu là người đã nhận được ánh sáng của Thiên Chúa và nhìn thấy mọi sự trong và nhờ ánh sáng của Thiên Chúa.

Cũng như các đạo sĩ, người tín hữu đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí, đã bắt được ánh sáng của Thiên Chúa, đã được đưa vào thế giới mới của Ngài. Phải gọi ơn này là gì? Gọi là ơn trời biển thì cũng chưa nói được gì về cái phúc của mình. Hãy tri ân và đừng bao giờ coi thường phúc đó. Trái lại hãy sống trọn niềm tin của mình, thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống giống như các đạo sĩ. Sau khi khám phá ra Chúa, cuộc đời họ đã biến đổi hoàn toàn và cuộc sống của có thật nhiều niềm vui.

Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quơ quạng với chiếc gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước. Còn đến khi vào lớp, các em lại cần mẫn dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng giòng chữ Braine trên trang giấy nổi.

Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có đeo một mẫu ảnh thánh giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết. . . Em kể rằng:

Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây Thánh Giá này cho em và bảo: Đèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con, thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy !

Tôi ân cần hỏi em

– Thế em có thấy vui không?

Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời ngay:

– Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng!

Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự nhủ: con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngủm rồi nhỉ?

 

 

NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG

Lm.Giuse Nguyễn Hữu An

Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.

Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.

Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Chuyện đang công khai, Hêrôđê chuyển thành bí mật: “bí mật vời các nhà chiêm tinh, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi phái các vị ấy đi, căn dặn: xin đi dò hỏi tường tận… khi tìm thấy xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy người”. Tất cả những động từ trên đây cho thấy cáo già Hêrôđê đang tìm cách biến các nhà chiêm tinh thành gián điệp phục vụ cho âm mưu đen tối của ông.

Các đạo sĩ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi đường khác mà về xứ mình”.

Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.

Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.

Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.

Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11). Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.

Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.

Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” . Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi : “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích : “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy. “Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.” (ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt).

Thời nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc,11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. (x.Verbum Domini, số 124).

Chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay.

 

 

THIÊN CHÚA TỎ MÌNH CHO NHỮNG TẤM LÒNG

CHÂN THÀNH TÌM KIẾM NGƯỜI

Lm An Phong, OP

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Ba nhà khôn ngoan theo dấu sao lạ tìm đến Be Lem và nhận ra Hài nhi, vua dân Do Thái. Hẳn là chúng ta có thể nhận ra mình nơi hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa.

Hẳn là vị Thiên Chúa vốn “ẩn giấu” chỉ tự bộc lộ cho những ai chân thành tìm kiếm Người.

* Cuộc đời là một cuộc hành trình, là một cuộc lên đường tìm kiếm, tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm an bình, tìm kiếm tất cả những gì làm cho cuộc sống tốt hơn. Với tiếng khóc oe oe chào đời, con người đã là kẻ lên đường; và tất yếu mọi bước đường đời cũng là những cuộc lên đường đi tới. Đã sống làm người là phải đi tới và đi tới mãi, không còn có thể quay đầu thoái lui nữa.

Như thế, hạnh phúc, chân lý, bình an, hy vọng… cũng chỉ đến với những ai sẵn sàng lên đường trong tâm trạng khắc khoải kiếm tìm quê hương đích thực “Lạy Chúa; tâm hồn con khắc khoải cho đến khi nghỉ an trong Chúa” (thánh Augustinô). Có lẽ mỗi người chúng ta đều mang trong mình hình ảnh Ba nhà khôn ngoan đi tìm kiếm Thiên Chúa. Bởi lẽ đức Tin chính là một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu, không phải là tin vào một số lý thuyết; và đức Tin chỉ là một quà tặng cho những ai sẵn sàng mở tâm hồn ra để đón nhận.

* Ý nghĩa căn bản của mầu nhiệm hiển linh cũng là ý nghĩa của mầu nhiệm nhập thể: mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra. Nhưng ngay khi tỏ mình ra, Thiên Chúa vẫn là một Thiên Chúa ẩn giấu; Ngài ẩn mình nơi một con người, một trẻ bé bình thường; Ngài ẩn giấu trong một hình bánh rượu; Ngài hiện diện cách ẩn giấu nơi nào có hai ba người tụ họp nhân danh Ngài; Ngài ẩn giấu nơi những người nghèo…

Thiên Chúa vẫn luôn là như thế và Ngài vẫn còn đang ẩn giấu dưới thiên hình vạn trạng trong cuộc đời. Thiên Chúa chỉ “hiển linh” với những tâm hồn bé thơ, những người dám lên đường tìm kiếm, những người biết mở tâm hồn ra để đón nhận; và những người đó sẽ nhận ra Ngài đang ẩn giấu ngay trong những dáng vẻ bình thường của cuộc sống.

Ôi lạy Chúa,

Có phải Chúa đã cho người mù nhìn thấy

và kẻ câm nói được?

Con van nài Chúa thêm một lần nữa!

Xin hãy mở mắt con ra cho con thấy;

Xin hãy mở tai con cho con nghe rõ hơn;

vì con vẫn thường muốn giả điếc làm ngơ.

(Michel Quoist)

 

 

LỄ HIỂN LINH

Giuse Võ Tuấn

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Người Do thái đã đợi chờ Đấng Messia từ bao nhiêu thế kỷ, và Đấng Messia được ví như một vì sao từ nhà Giacob (Ds. 24, 17). Chúng ta có thể nói một cách thi vị hơn, thì chờ đợi Đấng Messia là chờ đợi một vì sao xuất hiện.

Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người Do thái niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu độ cho dân tộc mình và cho cả thế giới (Ds. 24, 7). Nhưng không phải chỉ những người Do thái mới biết đợi chờ, vì theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu thì cả dân ngoại cũng tin rằng : Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđêa. Phải chăng đó chính là lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba Tư, Ả Rập xa xôi đã lặn lội tìm đến Giêrusalem để bái yết vị Tân vương, khi họ nhìn thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?

Thật vậy, đi sâu vào Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy nổi bật và sáng chói nhất mà cũng là khó hiểu nhất là hình ảnh ngôi sao. Thánh sử Matthêô đã nhắc tới ngôi sao đến bốn lần trong bài trình thuật này: ngôi sao xuất hiện ở phương Đông khích lệ các đạo sĩ lên đường đi Giêrusalem, ngôi sao bỗng biến mất khiến các đạo sĩ phải nhờ các thượng tế và kinh sư tra cứu Thánh Kinh để tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của nó, ngôi sao lại xuất hiện dẫn đường các đạo sĩ đến tận Bêlem, để rồi nhìn thấy ngôi sao thì các đạo sĩ vô cùng mừng rỡ.

Bên cạnh bao nhiêu giả thiết chuyên môn của các nhà khoa học và kinh thánh, thánh Phaolô trong một câu ngắn gọn tuy không chuyên môn nhưng rất đơn giản và thú vị “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” ( Phil. 2, 15 ) cho chúng ta thấy người Kitô hữu chính là các ngôi sao ấy. Nói cách khác, Thiên Chúa chúng ta là một vị Thiên Chúa ẩn mình, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của người Kitô hữu chúng ta. Vì thế cho nên, cái cung cách sống đạo biết yêu thương, biết tha thứ, biết nói tốt cho nhau của mỗi người Kitô hữu chúng ta, sẽ làm cho người lương dân chung quanh nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa là tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian này như vòm trời đêm tăm tối, và khuyến khích Kitô hữu chúng ta hãy sống yêu thương để có thể trở thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời này.

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Trở lại với trình thuật của bài Phúc Âm : khi vì sao lạ xuất hiện đã có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ sinh của Vua dân Do thái. Trình thuật đã nêu lên hai cặp đối lập: cặp đối lập thứ nhất là Hêrôđê và Hài Nhi một bên, cặp đối lập thứ hai là các vị thượng tế và kinh sư một bên.

Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay, ông đã hỏi về nơi sinh của vị vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ. Còn các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng thụ động. Họ quá rành về Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của vua Messia, nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem.

Còn các nhà đạo sĩ là đại diện cho dân ngoại, họ đã lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ sẵn sàng làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Quân Vương, mặc dầu trên đường đến với ngài họ gặp muôn ngàn gian khó, nhưng họ cứ vững lòng tiến về phía trước và cuối cùng đã gặp được Đức Giêsu và phủ phục thờ lạy Ngài. Qua cử chỉ tôn kính rất trân trọng ấy, họ nhìn nhận phẩm chất thần linh của Ngài. Họ dâng lên Ngài vàng để tôn xưng Ngài là vua, họ dâng Ngài nhủ hương để khẳng định Ngài là Thiên Chúa, họ dâng Ngài mộc dược để loan báo cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Với những ý nghĩa trong bài Tin Mừng hôm nay, phải chăng phụng vụ Giáo hội muốn nhắc cho mọi tín hữu biết: lễ Hiển linh là để khơi lại cho người Kitô hữu có nghĩa vụ phải truyền giáo. Ba Vua đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao, còn con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa? Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng riêng, mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng… Vậy thì chúng ta phải tìm hiểu xem đâu là ánh sáng thu hút được lòng con người? Phải chăng đó là ánh sáng của sự chân thành, của sự phục vụ yêu thương, của sự tha thứ giúp đỡ lẫn nhau, đó là ánh sáng của niềm vui an bình, của sự can trường bất nhất. Thực tế, chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ, một lời nói tốt cho nhau cũng sẽ bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao. Như thánh Phaolô đã viết: “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời”  (Phil. 2, 15).

Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay đều trở thành một ánh sao, một ánh sao nói được điều gì đó với những người đang chờ đợi, một ánh sao đồng hành với những người chung quanh trên mọi nẻo đường, một ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa, để cho Con Thiên Chúa và thế giới loài người hôm nay gặp nhau. Amen.

 

 

THEO HƯỚNG DẪN CỦA ĐỨC TIN

Trầm Thiên Thu

Ánh sáng không bao giờ hòa chung với bóng tối, bất cứ nơi nào xuất hiện cái này thì không thể có cái kia – và ngược lại. Ánh sáng xuất hiện thì bóng tối phải tan biến vì ánh sáng mạnh hơn bóng tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5).

Sự sáng là Thiên Chúa, bởi vì Ngài là ánh sáng chiếu soi trần gian tăm tối (x. Ga 1:9; Ga 8:12; Ga 9:5; Ga 12:46; 1 Ga 1:5), đối lập với bóng tối là ma quỷ. Từ xưa, sách Tôbia đã cho biết: “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm” (Tb 13:13).

Ôi, Miền Ánh Sáng đó thật kỳ diệu. Đó chính là Miền Ánh Sáng của Đức Tin sáng ngời, của Hồng Ân chan chứa, của Yêu Thương diệu kỳ, của Lòng Thương Xót bao la, của Hòa Bình trường tồn, của Công Lý nghiêm minh, của Chân Lý tuyệt đối, của Tự Do đích thực, của Hạnh Phúc miên viễn , của Sự Sống vĩnh cửu,…

Thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã vui mừng mời gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”(Is 60:1-2). Bình minh xua tan bóng đêm, ánh sáng tiêu diệt bóng tối. Ánh Sáng đó là Ánh Sáng Đức Kitô vĩnh viễn – hôm qua cũng như hôm nay, và đến mãi đời đời.

Con Thiên Chúa nhập thể hóa thành một Hài Nhi, mặc xác phàm để nên giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi, nhưng chính Con Người đó chính là Ánh Sáng, là Ngôi Lời, là Thiên Chúa tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình. Nhờ đó, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”, đồng thời “đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60:3-4).

Trong cuộc sống đời thường, chắc hẳn người mù mà được thấy ánh sáng thì hạnh phúc lắm, kinh nghiệm cho chúng ta nhận thấy rằng chỉ bị đau mắt mà khỏi thì chúng ta cũng đã vui mừng lắm rồi. Vì chúng ta không bị mù nên không thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui sướng của người-mù-được-sáng-mắt, nhưng về tâm linh thì chúng ta đã từng bị mù về đức tin, nhưng nay diễm phúc được thấy Ánh Sáng Đức Tin. Niềm vui quá lớn lao! Ngôn sứ Isaia diễn tả: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60:5-6).

Thánh Vịnh gia đã đại diện chúng ta mà cầu xin khi khiêm cung kính cẩn thân thưa: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:1-2). Ai chân thành xin thì sẽ được, và chắc chắn Thiên Chúa sẽ không bao giờ khước từ, bởi vì Ngài luôn muốn chúng ta được hạnh phúc ngay từ đời này.

Đó là sự thật minh nhiên, Chúa Giêsu là Vua Công Lý, Ngài đến để thi hành Thánh Luật của Đức Chúa một cách triệt để: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Tv 72:7-8). Bất cứ kẻ nào lạm dụng quyền thế và ỷ vào chức tước sẽ bị Ngài nghiêm trị.

Dù gần hay xa, thành phố hay miền quê, khắp nơi đều được hưởng bình an đích thực. Niềm vui được thể hiện: Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả về triều cống; cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật; mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự. Khắp nơi đều rộn rã tiếng reo vui, vì từ nay mọi người được sống trong Ánh Sáng Đức Tin, được phục hồi cả nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được Thiên Chúa đòi lại công lý: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn, từng giọt máu họ, Người đều coi là quý” (Tv 72:12-13).

Ý thức về trách nhiệm được giao, Thánh Phaolô bày tỏ: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây” (Ep 3:2-3). Kế hoạch cứu độ của Chúa đã được khởi đầu thực hiện từ khi Đấng Emmanuel đến ở cùng và chia sẻ gian lao với phàm nhân chúng ta.

Thánh Phaolô là người dày kinh nghiệm “xương máu” về tình trạng mù-được-sáng-mắt (cả nghĩa đen và nghĩa bóng), và rất hạnh phúc khi được cứu độ, ông giải thích minh bạch: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).

Đúng là trên cả tuyệt vời, bởi vì chúng ta đang là KHÔNG mà thành CÓ, đang là TỘI NHÂN mà thành CON CÁI, lại được CHIA SẺ và THỪA KẾ mọi thứ. Thực sự đó là niềm vui quá lớn lao, niềm hạnh phúc khôn tả mà phàm ngôn không thể diễn tả!

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng miền Bêlem nhỏ bé mà quan trọng, miền Bêlem tối tăm mà chợt thành Miền Ánh Sáng, miền Bêlem tầm thường mà bỗng thành Ngai Tòa của Chúa Tể Càn Khôn. Sự thể quá đỗi lạ lùng!

Tiếp theo sau sự kiện Con Chúa giáng sinh, Thánh sử Mát-thêu cho biết: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy chiêm tinh gia từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2). Họ là dân ngoại nhưng lại mau mắn nhận biết “sự lạ” và theo hướng dẫn của Ánh Sáng Đức Tin bằng cách đi theo hướng Ngôi Sao Lạ.

Khi nghe các đạo sĩ báo tin về một Tân Vương, vua Hê-rô-đê đã lúng túng như gà mắc tóc và hốt hoảng, tin này lan ra khiến cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Vốn tâm độc, bạo vương Hê-rô-đê liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ thành thật trả lời y như những gì họ đã biết: “Tại Bêlem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2:5-6).

Và rồi ông ta bí mật cho mời các chiêm tinh gia đến và hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Ra cái vẻ chân thành, ông ta phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8). Đúng là con cáo già, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm. Vô cùng hèn nhát!

Bạo vương Hê-rô-đê mưu mô thâm độc vì sợ người khác “chạm” đến ngai vàng đầy quyền lực của mình. Ngày nay cũng không thiếu những con người hèn nhát và bỉ ổi như “con cáo già” Hê-rô-đê, đó là những người tham quyền cố vị, tìm mọi cách “cố thủ” để bảo vệ “chiếc ghế” chứ chưa hẳn vì có ý tốt là phục vụ đồng bào và tha nhân. Hê-rô-đê ngày nay đa dạng, độc ác và nguy hiểm hơn Hê-rô-đê ngày xưa – đời hay đạo cũng đều có loại virus ác ôn đó. Và họ rất tinh vi nên không dễ nhận ra. Hãy cố gắng cảnh giác cao độ để có thể nhận biết chân tướng của “bọn cáo già” mà tránh cho xa!

Tuy nhiên, các chiêm tinh gia là dân hiểu biết nên không dễ mắc lừa. Mới đầu, họ nghe nhà vua nói thế, họ cũng tưởng nhà vua thật lòng nên ra đi tìm kiếm điều họ muốn biết tỏ tường. Và lạ thay, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở rồi mới dừng lại. Vừa ra khỏi triều đình, họ trông thấy ngôi sao nên mừng rỡ vô cùng. Khi đến nơi cần đến, họ thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria và Chú Giuse, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi mà họ tin chắc là Tân Vương. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến. Ôi chao, các ông này thành kính quá, con mắt đức tin của họ “sáng” quá, thế nên họ mới nhận ra Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng Thật và là Thiên Chúa Thật.

Cuối cùng, Thánh Mát-thêu cho biết rõ ràng rằng họ được báo mộng và cùng nhau KHÔNG trở lại gặp “con cáo già” Hê-rô-đê nữa, họ tìm đường khác để trở về quê quán (x. Mt 2:12). Thánh Mát-thêu tường thuật đơn giản và ngắn gọn, nhưng vẫn chứng tỏ sự khôn ngoan và sự mau mắn của mấy chiêm tinh gia khi họ tuân theo gợi ý khôn ngoan của Thiên Chúa.

Các chiêm tinh gia là dân trí thức và dùng sự thông hiểu của mình để nhận biết Thiên Chúa là ai. Ngày nay, nhiều người trí thức mà vẫn không nhận biết Thiên Chúa, thậm chí có người còn dùng lý luận khoa học của mình mà tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Các chiêm tinh gia là những con người can đảm, không hèn nhát, dám bất tuân vua quan trần thế để thi hành ý Chúa. Còn chúng ta thì sao?

Hèn nhát như ác vương Hê-rô-đê là tồi tệ. Kinh Thánh nói: “Khốn thay những tâm hồn HÈN NHÁT, những bàn tay rã rời, và người tội lỗi lập lờ nước đôi” (Hc 2:12). Can đảm và cương trực là điều không dễ, phải thực sự dấn thân vì người khác. Thật đáng khâm phục bản lĩnh của cố TT G.B. Ngô Đình Diệm, được chứng tỏ qua lời nói của ông: “Tôi TIẾN thì THEO tôi, tôi LÙI thì BẮN tôi, tôi CHẾT thì NỐI CHÍ tôi”. Về phương diện đức tin, chúng ta cũng phải cương quyết như vậy, nghĩa là phải luôn hành động theo hướng dẫn của đức tin chân chính. Mặc dù đức tin có trước lý trí nhưng vẫn cần có lý trí để phân định mà không bị lệch lạc.

Lạy Thiên Chúa công bình và nhân hậu, xin giúp con duy trì tầm nhìn của con mắt đức tin để có thể nhận biết Ngài hiện hữu qua các biến cố của cuộc đời, nhìn thấy Ngài nơi tha nhân, nhất là nơi những con người hèn mọn nhất. Xin giúp con can đảm loại bỏ mọi ý nghĩ xấu xa để con có thể can đảm chống lại cái ác và được gặp Chúa qua Ánh Sáng Đức Tin. Con cầu xin nhân danh Vương Nhi Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

 

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT VÌ SAO CỦA HÀI NHI GIÊSU

Tu sĩ Jos.Vinc.Ngọc Biển

Lễ Chúa Giáng Sinh là một sự kiện rất quan trọng và vĩ đại trong lịch sử loài người. Vĩ đại bởi vì được khởi đi từ chính Thiên Chúa do lòng yêu thương vô hạn của Người. Quan trọng bởi vì Đức Giêsu chính là Ánh Sáng đến để soi vào trong bóng tối tội lỗi và giải thoát muôn dân khỏi ách tử thần. Hồng ân này không phải chỉ dành riêng cho một thành phần nào, hay cụ thể là độc quyền của dân Israel, mà là cho toàn nhân loại. Việc Chúa tỏ mình ra cho các nhà Đạo Sĩ qua ánh sao lạ dẫn đường và hành trình của các ngài tìm đến để bái lạy Hài Nhi là một dấu chứng về ơn cứu độ phổ quát được ban cho toàn thể nhân loại.

Vì vậy, hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển Linh, tức là lễ Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Có thể nói, lễ này được gọi là lễ Giáng Sinh cho dân ngoại.

  1. Các Đạo Sĩ là ai?

Vào thời bấy giờ, thuộc vùng Lưỡng Hà gồm các nước: Iran, Irak và xa hơn một chút có các nước như Afganistan và Ấn Độ. Các vùng này phát triển những nền văn minh, khoa học kỹ thuật tương đối rực rỡ thời bấy giờ. Song song với những phát minh khoa học là những tôn giáo lớn và huyền bí. Trong bối cảnh đó, những nhà hiền triết xuất hiện trong triều đình, nơi đô thị và cả chốn rừng sâu. Họ là những người truy tầm chân lý, khám phá những giá trị tâm linh và chú tâm đến những văn hóa có tính nhân sinh quan trong thiên nhiên, cuộc sống và qua những biến cố.

Vì vậy, họ đã dùng khả năng Thiên phú để khám phá và đi sâu vào thế giới tâm linh. Họ thường quan sát bầu trời qua các tinh tú để hiểu được Thiên ý và Thiên mệnh của con người. Những người đó, thời bấy giờ, người ta gọi họ là các nhà Đạo Sĩ hay Chiêm Tinh hoặc vua.

Khi Đức Giêsu Giáng Sinh, Ngài đã tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ qua dấu lạ ngôi sao. Ánh sao đó đã trở nên biển chỉ đường để dẫn các Đạo Sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu mới sinh tại Belem. Chúa đã dùng các ông như là những nhân chứng để loan báo cho muôn dân biết Ngài là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đã chiếu soi muôn dân; là Chúa các chúa; là Vua các vua; là Thủ Lãnh của cả nhân loại.

  1. Hành trình tìm Chúa của các Đạo Sĩ  

Khi đã lần theo dấu vết ngôi sao lạ dẫn đường, các nhà Đạo Sĩ đã gặp phải không ít khó khăn trên hành trình đó như ánh sao bỗng vụt lặn không còn dẫn đường chỉ lối nữa, họ phải hỏi thăm… nhưng thật không may cho các Đạo Sĩ, họ hỏi thăm ngay phải con cáo già Hêrôđê, vì thế, lập tức họ là những đối tượng truy sát đầu tiên trong tâm trí của vị vua tàn ác này dưới những lời tưởng chừng như ngọt ngào. Câu hỏi: “Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Đây cũng chính là khởi đầu của một hành trình gian khó và đầy nguy hiểm đến với các Đạo Sĩ.

Tuy khó khăn và thử thách, các ngài vẫn quyết tâm lên đường để tìm và gặp cho kỳ được. Các Đạo Sĩ đã rất nhạy bén để tìm ra những dấu chỉ và tin tưởng đi tìm chân lý. Và, họ cũng đã gặp được Đấng là khởi đầu và cùng đích của con người cũng như thế giới, nên họ đã dâng những lễ phẩm thật ý nghĩa.

Trước tiên là vàng:

Vàng được xếp vào hàng kim loại vua của các loại kim loại. Vàng là loại quý hiếm, nên dâng về cho Vua các vua là điều hợp lý. Khi dâng vàng cho Chúa, ngầm hiểu rằng: Đức Giêsu là Đấng “sinh ra để làm vua”. Tuy nhiên là một vị vua hiền từ, nhân hậu và chết vì yêu.

Sau đó là nhũ hương:

Nhũ hương thường được dùng trong những việc thờ phượng. Khi đốt lên, hương và khói bay cao được ví như lời kinh cầu nguyện bay lên trời. Trên trời là nơi được hiểu là chốn của các thần minh. Và, dần dần, người ta hiểu rằng nhũ hương chính là biểu tượng cho Thiên tính của Đức Giêsu.

Cuối cùng là mộc dược:

Khi nói đến mộc dược, người ta nghĩ ngay đến việc dùng để xông hay ướp xác lúc an táng. Khi cắt nghĩa về mộc dược, người ta thường ám chỉ về nhân tính của Đức Giêsu. Nếu nhũ hương ám chỉ Thiên Tính, thì mộc dược muốn nói về nhân tính của Ngài.

Như vậy, việc dâng cho Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược, các đạo sĩ đã xác nhận và làm chứng rằng Đức Giêsu là Vua. Ngài là con Chúa Cha, và do lòng yêu thương Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của mình. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Đồng thời, Ngài cũng là con người như chúng ta, Ngài đến để yêu thương và cứu chuộc hết mọi người.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Khi nói về lễ Hiển Linh, chúng ta nghĩ ngay lễ này là lễ ánh sáng. Còn hiểu theo nghĩa thần học thì đây là lễ Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ, hay còn gọi là lễ Giáng Sinh cho dân ngoại.

Thật vậy, hôm nay, Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, không trừ một ai. Ai cũng cần phải được cứu độ. Tuy nhiên, nhiều lúc, chúng ta nghĩ chỉ có chúng ta mới được cứu độ, còn những người không cùng niềm tin với chúng ta thì không được cứu độ. Đức Giêsu là độc quyền sở hữu của chúng ta, còn những người khác không được đụng hay nghĩ tới… Thực ra, nhiều người không phải là Công Giáo, nhưng họ cũng sống tốt, thậm chí còn hơn cả người Công Giáo nữa. Đôi khi chúng ta là đạo gốc nhưng lại bị loại ra ngoài hoặc cố tình không nhận ra Chúa như Hêrôđê. Thật vậy: “Từ Phương Đông Phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12).

Tình trạng này thật đúng khi có dịp đi đến những trung tâm hành hương. Nếu quan sát, chúng ta thấy những người lương dân… họ sùng kính Đức Mẹ, các thánh hay các vị tử đạo còn hơn chúng ta. Ngược lại, người Công Giáo thì lại cho rằng, mình là con ruột của Chúa, nên thế nào cũng được ơn, vì vậy không cần phải biểu lộ ra bề ngoài, mà là đạo tại tâm. Nói vậy có thể đúng với quan điểm, cung cách và lựa chọn của một số cá nhân. Tuy nhiên, cũng cần phải xem lại, vì nếu không, đây chỉ là cách ngụy biện, là bình phong che lấp đi bản chất ươn lười của chúng ta.

Khi suy niệm đến đây, chúng ta nhớ lại lời Chúa nói: “Chính các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14).

Sao của chúng ta hôm nay không phải là sao: “bóng đá ”; “ca nhạc ”; “đua xe ”; “ăn chơi ”; “hận thù”…, nhưng chúng ta phải là những “siêu sao”, tức là vượt lên trên tất cả những thứ sao bình thường. Phải trở nên “siêu sao” thì mới tỏa sáng cho mọi sao khác, nếu không chúng ta chỉ có thể chiếu sáng cho những  “fan” hâm mộ chúng ta mà thôi. Hãy là “siêu sao”, của “tình yêu”; “tha thứ”; “hy vọng”; “công bình”; “bác ái” và cuối cùng chính là sao “đạo đức”.

Trong cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta, từ lời nói, hành động và việc làm, chúng ta hãy biểu lộ ra cho mọi người thấy chỉ có một động lực là tình yêu, chỉ có một hành động là tình yêu, và cũng chỉ có một mục đích là tình yêu. Xác tín như thế, ấy là vì chúng ta đang thực hiện lời Chúa dạy: “Cứ dấu này mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa, đó là chúng ta yêu thương nhau”. Tiếp nối lời giáo huấn của Đức Giêsu, thánh Phaolô cũng khuyên nhủ tín hữu ở Philípphê: “Giữa thế hệ sa đoạ này, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 15).

Lạy Chúa, Đông Phương vẫn được coi là huyền bí, là nơi có những suy niệm siêu hình và tinh tế. Xin Chúa hãy thánh hóa Đông Phương và đem những người thành tâm thiện chí về với Giáo Hội. Amen.

 

 

VAI TRÒ CỦA ÁNH SAO VÀ LỜI CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Tin mừng hôm nay cho ta thấy có hai sự chỉ dẫn giúp ba vua- đại diện cho dân ngoại- tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Đấng Cứu Độ muôn dân. Đó là ánh sao (dấu chỉ tự nhiên) và Lời Chúa (dấu chỉ siêu nhiên).

  1. Ánh sao, dấu chỉ tự nhiên

Vào đêm Chúa Giáng Sinh bầu trời Belem lấp lánh ánh sao lạ và rộn ràng thiên thần ca hát. Nhưng chẳng có ai hay ai biết. Chỉ có mấy mục đồng nhận được sứ điệp của thiên thần. Chỉ có mấy nhà đạo sĩ- ba vua- ngoại giáo nhận ra ánh sao lạ.

Khi nhận ra ánh sao lạ báo hiệu Đấng Cứu Thế ra đời, các đạo sĩ vui mừng lên đường tìm kiếm. Dõi theo ánh sao, các đạo sĩ tìm đến Giêrusalem, trung tâm chính trị, văn hoá và tôn giáo của Israel, dân riêng Thiên Chúa.

Đến Giêrusalem, ánh sao biến mất, khiến các đạo sĩ phải hỏi thăm tin tức về nơi chốn vị “Vua dân Dothái vừa mới sinh.”

  1. Kinh Thánh, Lời Chúa, mạc khải siêu nhiên

Nhận được câu hỏi của các đạo sĩ về nơi chốn vị “Vua dân Dothái vừa mới sinh”, vua quan và dân chúng kinh thành Giêrusalem bối rối xôn xao. Nhờ vào Thánh Kinh họ đã đưa ra câu trả lời cho ba vua về nơi chốn của vị Vua mừa mới giáng sinh, đó là Belem.

Nhờ sự chỉ dẫn của Kinh Thánh – Lời Chúa, các đạo sĩ biết được chính xác nơi chốn Hài Nhi Giêsu giáng sinh, họ lại tiếp tục lên đường tìm kiếm Ngài. Ra khỏi thành Giêrusalem, các đạo sĩ lại nhận thấy ánh sao lạ tiếp tục chiếu sáng và soi dẫn họ tìm đến gặp Hài Nhi Giêsu.

Gặp được Vua dân Dothái mới sinh chính là Hài Nhi Giêsu mà họ đang kiếm tìm, các đạo sĩ liền qùi gối thờ lạy, dâng lễ vật để tỏ lòng thành kính

  1. Sống Tin mừng

Từ những điểm trên, ta nhận thấy vai trò của mạc khải tự nhiên trong việc giúp con người tìm kiếm Thiên Chúa như Thánh vịnh 18 viết: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm…

Quả thật, khi nhìn ngắm trời đất muôn loài muôn vật, con người có thể nhận ra Thiên Chúa là tác giả.

Dấu chỉ tự nhiên trong trời đất cần thiết để thúc đẩy con người hăng say kiếm tìm, khám phá chân lý. Tuy nhiên tự nó không đủ để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa hằng sống, cần phải có sự trợ giúp của mặc khải siêu nhiên là Lời Thiên Chúa, được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, thì con người mới chắc chắn tìm gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại.

Để giúp cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ và những chân lý mạc khải siêu nhiên, Thiên Chúa đã chọn gọi dân Israel là dân riêng. Nói khác đi, dân Israel như là một khí cụ Thiên Chúa dùng để đón nhận và trao ban Đấng Cứu Độ cho muôn dân. Vì thế muôn dân muôn nước sẽ phải đến với dân Israel như lời tiên tri Isaia loan báo (Is 60,1- 6).

Ngày nay vai trò của dân Isarael đã bị Giáo Hội thế chỗ. Giáo Hội là dân Israel mới, được Đức Giêsu tuyển chọn và thành lập trên nền tảng 12 thánh Tông đồ theo thánh ý Chúa Cha với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Cũng như và còn hơn dân Israel xưa, Giáo Hội có vai trò đón nhận, gìn giữ, trình bày, giải thích kho tàng mạc khải siêu nhiên cách nguyên tuyền và đúng đắn cho nhân loại, để chỉ cho nhân loại con đường chắc chắn dẫn đưa tới Thiên Chúa và sự sống đời đời. Vì thế:

– Chúng ta phải luôn vâng lời Giáo Hội và góp sức mình vào việc xây dựng và phát triển Giáo Hội ngay tại địa phương, môi trường sống của mình, để Giáo Hội, giáo xứ giáo họ chúng ta như là ‘ánh sao’ và là một địa chỉ đáng tin cậy, giúp người ta tìm đến với Chúa. Đừng bao giờ coi thường và chống phá Giáo Hội, gây gương mù gương xấu, làm cho người ngoại giáo không còn coi Giáo Hôi, giáo xứ giáo họ là địa chỉ đáng tin cậy giúp họ tìm đến với Chúa nữa.

– “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (T. Giê-rô-ni-mô). Cho nên chúng ta phải năng đọc và suy gẫm Thánh Kinh, tích cực học hỏi sâu rộng về giáo lý đức tin và văn hoá trong đời sống hàng ngày, để đời chúng ta “luôn chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời và sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta” như là dân Israel xưa đã trả lời cho ba nhà đạo sĩ.

Kinh không thuộc, giáo lý không biết, Lời Chúa không đọc không học, thì làm sao trả lời cho bất cứ ai tra hỏi chúng ta về lẽ đạo! Không trả lời được về lẽ Đạo, không dẫn đưa người khác đến với Chúa, thì đời chúng ta lúc ấy thay vì chiếu sáng lại trở nên tối tăm! Thay vì làm sáng danh Chúa lại làm ô danh Chúa!

Lạy Chúa, hôm nay Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Nhờ ánh sao lạ và nhờ ánh sáng Lời Chúa, ba vua, đại diện cho dân ngoại tìm đến với Chúa là nguồn cội sự sống và bến bờ hạnh phúc.

Xin cho mỗi người chúng con, gia đình chúng con, giáo xứ chúng con như là một ánh sao dẫn đưa người lương dân tìm đến với Chúa. 

Xin cho mỗi người chúng con nhất là các bạn trẻ tích cực học hỏi sâu rộng về giáo lý đức tin và văn hoá, để chúng con sẵn sàng trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của chúng con cũng như sẵn sàng hướng dẫn cho ai khao khát tìm kiếm Chúa. Amen.

 

 

HỌ LIỀN SẤP MÌNH THỜ LẠY NGƯỜI

Fx Đỗ Công Minh

Lạy Chúa, Lại một Mùa Giáng sinh đã qua đi. Mới hôm nào đây, con nôn nao mong ngày Lễ Noel chóng đến. Vậy mà hôm nay, ngày Lễ đã qua đi được hai tuần.

Thóang một cái, một năm đã trôi qua. Năm 2018 đã bước qua những ngày đầu tiên, con đã thêm một tuổi mới. Lớn lên thêm hay đang già đi? Mùa Giáng Sinh đi qua để lại nơi con điều gì? Phải chăng chỉ là một niềm vui qua những buổi gặp gỡ, chúc mừng nhau; những buổi liên hoan gọi là Mừng lễ những ngày trước đó, hay những tấm thiệp, gói quà xinh xinh, chiếc bánh kem con nhận được từ bạn bè, người thân, những tấm hình sinh động gửi qua Messenger của chiếc điện thoại di động kèm âm thanh của những bài Thánh ca, cả những bộ quần áo đẹp chưng diện được nhiều người khen?

Lạy Chúa,

Nếu chỉ mừng ngày kỷ niệm Chúa đến như một dịp lễ hội, con đâu khác những người ở kinh thành Bê Lem xưa cũng đèn đuốc, ăn uống thả dàn đón người người về quê cũ đăng ký nhân khẩu, kiểm tra dân số. Chúa đến ở giữa dân Người, nhưng họ chẳng nhận ra; thậm chí từ chối, xua đuổi để mải mê vui chơi, ăn uống, làm giàu.

Nếu con chỉ mừng lễ Giáng sinh như một ngày lễ lớn trong năm, con cũng đâu khác gì những người Luật sĩ, Thượng tế thông biết lề luật, Kinh Thánh, thuộc lòng các sách Tiên tri, biết Đức Giêsu sẽ sinh ra tại BêLem, nhưng họ lại dửng dưng. Rồi sau đó khi biết Người đã sinh ra, từ thông tin của các nhà Đạo sĩ, bèn họp nhau tìm cách bách hại, tìm giết Chúa, do lo sợ bị mất quyền lợi, địa vị, chức quyền.

Ánh sao năm xưa đã chỉ đường cho những ba vị đạo sĩ mang tiếng là dân ngọai tìm gặp Chúa. Chúa đã tỏ mình ra với những con người khiêm tốn, biết từ bỏ những tiện nghi, thỏai mái trong cuộc sống, chấp nhận gian khó và mạnh dạn lên đường theo ánh sao lạ, theo những chỉ dẫn của Thánh Kinh, biết dò dẫm, tìm hiểu và cuối cùng tìm được đến Người để thờ lạy, tôn vinh, tin nhận. Và chính qua những con người biết dâng trọn niềm phó thác, biết dâng Chúa tất cả những gì quí báu nhất của bản thân, họ đã được Chúa tỏ mình ra. Và qua họ, ánh sáng và Tin Mừng đến được với muôn dân muôn nước .

Phần con, con có biết noi gương các vị đạo sĩ, tìm theo những dấu chỉ trong đời sống để nhận ra Chúa trong cuộc đời hôm nay? Chúa không ở đâu xa, Người đang ở bên con. Chúa hiện diện nơi những người bất hạnh, khốn khó, yếu đau, bệnh tật; những người lang thang, cơ nhỡ đang cần đến con. Con có sẵn sàng đón tiếp, gần gũi, giúp đỡ họ? Làm được những điều ấy là con đón tiếp Chúa.

Xin cho mắt con mở ra, chân con bước tới, tay con giang rộng với những người đang cần đến con. Con biết góp phần mình để xóa bớt đi những khổ đau, nhọc nhằn của anh em mình, tức là con mãi sống niềm vui Giáng sinh mà các Thiên sứ đã loan báo: “Vinh Danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho lòai người Chúa thương “. AMEN.

 

 

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA LỄ HIỂN LINH

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội là Bí Tích hiệp nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Thế của mình.

Is 60: 1-6

Ngôn sứ I-sai-a loan báo vinh quang của Thành Thánh Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.

Ep 3: 2-6

Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ. Đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một Giáo Hội duy nhất, trở nên một Thân Thể mầu nhiệm của Đức Giê-su Ki-tô.

Mt 2: 1-12

Được soi lối chỉ đường: từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, đến thờ lạy Đấng Cứu Thế.

BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)

Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố sứ mạng phổ quát của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Họ mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en ở bên kia chủ nghĩa dân tộc và nhấn mạnh ơn gọi của dân Ít-ra-en phải là ánh sáng cho muôn dân.

Bản văn được chọn để cử hành lễ Hiển Linh được trích từ tác phẩm của một trong các ngôn sứ này. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.

  1. Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (60: 1-2)

Ông loan báo một sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi dân Ít-ra-en đang ngã lòng thất vọng. Trước đây, cuộc hồi hương trở về đã đem lại cho những người lưu đày một niềm phấn chấn vô bờ; nhưng khi đụng chạm đến thực tế, họ mới vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng, dân cư thưa thớt, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tuế nguyệt trên bốn mươi năm. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh phải dừng lại dang dở. Chính vào lúc ấy, một sứ điệp vang lên để an ủi những ai mất can đảm:

“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.

Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” (60: 1).

Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho họ được trở về quê cha đất tổ. Những kẻ áp bức đã bị trừng phạt. Cuộc hồi hương này được ví như buổi bình minh, còn Thiên Chúa thì được sánh ví như vầng kim ô chói lọi:

“Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;

còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,

vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (60: 2).

Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vì thế, vị ngôn sứ trình bày hai thị kiến chứa chan hy vọng: cuộc tụ họp vĩ đại tại Thành Đô và nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô.

  1. Cuộc tụ họp vĩ đại tại Thành Đô (60: 3-4)

Trong thị kiến chứa chan hy vọng thứ nhất, vị ngôn sứ báo trước cuộc tụ họp vĩ đại của muôn dân muôn nước và con cái Ít-ra-en đang tản mác khắp nơi:

“Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,

vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước” (60: 3).

Chư dân đến từ phương xa này là muôn dân muôn nước, họ sẽ chọn Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình, vì uy danh Thiên Chúa của thành đã quyến rũ họ.

“Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,

tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi:

con trai ngươi từ phương xa tới,

con gái ngươi được ẵm bên hông” (60: 4).

Những con trai con gái này là những “cộng đồng Do thái hải ngoại”, họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam. Thế nên, một truyền thống rất sinh động muốn rằng toàn thể dân Ít-ra-en lại được thống nhất, đó phải là công trình của Đấng Cứu Thế. Như vậy, sấm ngôn hàm chứa hậu cảnh Mê-si-a.

  1. Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (60: 5-6)

Trong thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất, vị ngôn sứ báo trước việc chư dân sẽ tiến dâng nguồn phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh:

“Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha;

tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,

đều mang theo vàng với trầm hương,

và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (60: 6)

Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sơ-va là những dân Á-rập. Tên Sơ-va gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sa-ba đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng cho vua nhiều quà tặng quý giá. Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn sống trong cảnh lầm than, nhưng trong cảnh thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại bừng lên ánh sáng huy hoàng từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân lũ lượt kéo nhau đến để tán dương chúc tụng Thiên Chúa. Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tinh tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en.

Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước được đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (Bài Đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc tụ họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành thánh Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc, được phác thảo trên trần thế này là Giáo Hội.

BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3, 5-6)

Thánh Phao-lô viết bức thư này có lẽ trong cảnh bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được gởi đến các tín hữu Ê-phê-xô, và qua cộng đoàn Ê-phê-xô này, được chuyền đến các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á. Quả vậy, trong bức thư này, không có bất kỳ lời chào thăm hỏi nào của thánh nhân dành cho các tín hữu Ê-phê-xô. Ấy vậy, thánh Phao-lô đã trải qua ba năm trong thành này và đã để lại ở đây các môn đệ và những bạn hữu. Vì không có lời chào thăm hỏi đặc thù này, khiến người ta suy ra rằng thánh Phao-lô muốn bức thư này phải được phổ biến rộng rải.

Những cộng đoàn miền Tiểu Á đa số là những Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc họ nhớ ơn gọi tông đồ dân ngoại của ngài. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ biết rằng không còn một dân tộc được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa, vì muôn dân đều được hưởng cùng một ơn cứu độ như con cái Ít-ra-en.

  1. Mầu nhiệm Đức Ki-tô

Sứ điệp chính yếu của bức thư này là “mầu nhiệm Đức Ki-tô”. Qua từ “mầu nhiệm” này, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.

Theo thánh Phao-lô, dù có nghiên cứu Kinh Thánh một cách thành tâm thiện chí mấy đi nữa cũng không thể nào biết được ý định ẩn kín từ muôn thuở này, đó là vào kỷ nguyên Mê-si-a, dân Ít-ra-en không còn được hưởng những đặc quyền nữa, nhưng được trao ban cho hết muôn dân: muôn dân trở nên đồng thừa tự Lời Hứa. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu này chỉ nhờ ánh sáng của Đức Giê-su soi lòng mở trí cho thánh nhân trên đường Đa-mát.

  1. Dân thánh

Từ trong cảnh giam cầm ở Rô-ma, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các vị Tông Đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua kiểu nói: “dân thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki-tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.

  1. Vị Tông Đồ của dân ngoại

Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi này. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt núi băng đèo, không quản ngại gian nguy. Chương 13 của sách Công Vụ tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức… trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa. Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong chuyện tích “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.

TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)

Thánh Mát-thêu là tác giả Tin Mừng duy nhất tường thuật chuyện tích “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Thánh nhân đã giữ lại chuyện tích này vì nó xác minh một trong những chủ đề sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và Giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho lương dân dự phần vào Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến họ. Thật lạ lùng trong khi lương dân đáp trả lời mời gọi dự phần vào Giao Ước, thì con cái của Lời Hứa quay lưng lại với Giao Ước.

Thánh Lu-ca tường thuật các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó, trong khi thánh Mát-thêu lại tường thuật các nhà chiêm tinh từ đường xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người thông thái, giàu có. Các mục đồng là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi các nhà chiêm tinh đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.

  1. Ảnh hưởng của phương pháp “midrash”

Chuyện tích của thánh Mát-thêu rất phức tạp. Hai loại yếu tố được đan quyện vào nhau ở đây: những yếu tố này thuộc những dữ kiện lịch sử, những yếu tố khác do cách thức trình bày những sự kiện. Thánh Mát-thêu được gợi hứng từ phương thức giải thích Kinh Thánh của các kinh sư Do thái được gọi là “midrash”. Đây là thể loại văn chương được thịnh hành trong những môi trường Do thái vào thời Chúa Ki tô và vào thời Ki-tô hữu gốc Do thái.

“Midrash” là phương thức kể chuyện cốt yếu là tập hợp những câu Kinh Thánh chung quanh một hạt nhân lịch sử, phóng đại vài chi tiết và hễ có dịp nêu bật khía cạnh kỳ diệu của chúng để nhấn mạnh ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa. Phương thức midrash đặc biệt được tôn vinh vào việc cử hành phụng vụ lễ Vượt Qua: với phương thức này, những gợi ý của quá khứ trở nên sống động hơn.

  1. Hạt nhân lịch sử

Chắc hẳn phải có một “biến cố thực” ở nơi nền tảng của chuyện tích Tin Mừng này. Rõ ràng thánh Mát-thêu múc lấy những dữ kiện của mình ở nơi những kỷ niệm và truyền thống Bê-lem, trong khi thánh Lu-ca quy chiếu nhiều hơn đến những kỷ niệm và truyền thống Na-da-rét.

Mặt khác, những thủ bản Biển Chết đã giúp khẳng định chuyện tích Tin Mừng. Trong số những thủ bản được khám phá, người ta đã gặp thấy số tử vi của vị vua Mê-si-a được mong đợi. Như vậy, vào thời Đức Ki-tô chào đời, người ta bận lòng muốn biết Đấng Mê-si-a sinh ra dưới vị sao hộ mệnh nào, và trong vài môi trường Do thái, người ta tra cứu các tinh tú trên bầu trời để khám phá vị sao hộ mệnh này xuất hiện, vì Đấng Mê-si-a chào đời khi vị sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện. Quả thật, các nhà chiêm tinh nói: “Chúng tôi đã thấy vị sao của Người xuất hiện”. Vào thời này, khoa chiêm tinh rất phổ biến.

  1. Lên đường theo ánh sáng tự nhiên

Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho ngôi sao lạ thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh này. Thánh vịnh đã nói với chúng ta:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,

không trung loan báo việc tay Người làm.

Ngày qua mách bảo cho ngày tới,

đêm này kể lại với đêm kia.

Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh.

Mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu

và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19: 2-5).

Nếu chỉ cần suy nghĩ cách sâu xa biết bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.

  1. Lai lịch của những nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông

Những nhà thông thái và giàu có này là ai mà thánh Mát-thêu gọi họ là “các nhà chiêm tinh”? Theo nghĩa đầu tiên của thuật ngữ, từ “nhà chiêm tinh” chỉ các tư tế và các vị cố vấn của các vua Ba-tư. Về sau, tên gọi này bị dùng sai và được gán cho những người miệt mài nghiên cứu khoa thiên văn và thuật chiêm tinh. Thánh Mát-thêu xem ra hiểu theo ý nghĩa này. Họ đến từ Phương Đông. Thánh Mát-thêu không tìm cách xác định, điều mà thánh ký muốn nói: họ đến từ thế giới lương dân, điều cốt yếu là ở đó. Chắc chắn họ không phải là các vua.

Làm thế nào các nhà chiêm tinh này biết được số tử vi của “vua dân Do thái” mà nhận ra ngôi sao hộ mệnh của Ngài xuất hiện? Nhiều người khác nghĩ rằng văn chương Do thái về Đấng Mê-si-a đã được phổ biến một cách rộng rải trong các cộng đồng Do thái hải ngoại, đó lời giải thích đủ.

  1. Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem

Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì chính “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu chủ ý dùng tước hiệu này vì đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người này là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).

Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem khiến vua Hê-rô-đê và triều thần bối rối. Điều này xem ra cũng dễ hiểu vì vua cùng triều thần nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân thành này đã lỗi hẹn gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Qua việc cả dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao, thánh ký báo trước dân này sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng này có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét này: “Cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao”.

Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo, còn các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh; vì thế, họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ này đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh này xem ra là hình ảnh tham dự trước cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.

Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Ngôn sứ Mi-kha viết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en …” (Mk 5: 1), trong khi bản văn trích dẫn của Mát-thêu: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. Rõ ràng trong bản văn của mình, thánh Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng sửa đổi và thêm vào bản văn của 2Sm 5: 2: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…”.

 “Bấy giờ Vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẻ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện” để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua đã hoạch định mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa, nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.

Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật này rất gần với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa này: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo đến điên cuồng sát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông đã ra lệnh hành hình nhiều người biệt phái trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua này, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù vô nhân tính đi nữa.

Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash”? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hãi…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”. Đây là lời giải thích Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu được gợi hứng từ phương thức này? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.

  1. Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa

Chắc chắn chúng ta cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ này. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng này rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao soi lối chỉ đường cho các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?

  1. Gặp gỡ Hài Nhi

Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…”. Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đến triều bái chính Đấng mà thánh Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước đã tiên báo và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.

Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều này thật lạ lùng, vì cho đến lúc này thánh Mát-thêu rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì chứ? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài” ?

Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các lễ vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường này là một vị vua vừa mới chào đời. Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật này: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi này là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi này là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những dược liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi này sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa này, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Các nhà chiêm tinh từ phương trời xa đến triều bái lạy Hài Nhi, như thế các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su này (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).

Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của chuyện tích này, nhưng không ai có thể chối cãi đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.

 

THAO THỨC KIẾM TÌM

Lm. Jos. DĐH.

Rất nhiều bậc cha mẹ nghèo, có con học giỏi, không ít những người thành đạt, đơn giản vì họ sống quyết tâm: có chí thì nên. Giá trị cuộc sống được cân đo bằng tiền tài địa vị, bằng tình yêu thương, hay sự an vui tâm hồn, cũng do quan niệm và ý thức của mỗi người. Có chí làm quan, có gan làm giầu, không phải là khái niệm mới mẻ ; chờ thời, chờ sung rụng, có thể chẳng mấy ai mặn mà với ý tưởng hên xui như thế nữa. Hành trình tìm kiếm của ba đạo sĩ sẽ bị xem là “ngớ ngẩn”, nếu như họ lên đường vì “danh, lợi, thú”, triều thần Hêrôđê sẽ mãi bị thiên hạ “cười chê”, nếu họ chỉ quan tâm đến địa vị, bổng lộc trần thế. Thật bất ngờ khi các đạo sĩ từ phương xa tìm đến “Belem” có ý bái thờ Vị Vua mới sinh, quả là bối rối khi triều thần Hêrôđê nghe được câu hỏi: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu ?”, đúng là trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông.

Nếu bầu trời đêm tối không mưa, chúng ta không khó khăn gì để nhìn thấy ánh sao lấp lánh, nhưng đâu là “sao lạ”, dễ gì chúng ta đã có kinh nghiệm, điều này cũng khó như mấy ai đủ khôn ngoan để phân biệt thật giả ? Các mục đồng năm xưa dõi theo ánh quang mà tìm đến Belem nhờ các thiên thần ; sau đó các đạo sĩ tới bái thờ Hài nhi Giêsu nhờ “sao lạ”, nhờ triều thần Hêrôđê mách lối chỉ rõ vị trí “Belem”. Chúng ta hôm nay tới hang đá tại nhà thờ giáo xứ, tất cả xuất phát do niềm tin, do thao thức kiếm tìm ơn cứu độ như lời thiên thần loan báo: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Bằng mắt thường, các đạo sĩ đã gặp Hài nhi Giêsu sau hành trình thao thức tìm kiếm, rồi bằng mắt tâm hồn, họ đã nhận ra Hài nhi Giêsu chính là Thiên Chúa, và họ bái thờ Ngài.

Xã hội phong phú bởi có nhiều tâm hồn nghệ thuật, họ phân biệt được “sao lạ và sao không lạ”, tính toán được chính xác ngày giờ “Ngôi Lời” hạ sinh tại Belem và chỉ dẫn người khác. Xã hội cũng đầy những người có đầu óc làm kinh tế, họ luôn nhạy bén tranh thủ dù điều kiện hoàn cảnh khó khăn hay thuận lợi, để mang lại thu nhập tốt nhất. Trong khi các đạo sĩ thao thức dõi theo ánh sao lạ, tìm đến bái thờ “Vua dân Do-thái” mới sinh, thì triều thần Hêrôđê lại suy nghĩ tìm cách củng cố địa vị, dụng kế tìm mưu, nhằm loại bỏ danh tính “Hài nhi Giêsu” khỏi vương quyền trần thế. Ngày hôm nay có thể không ai ganh tỵ với sự nhạy bén của ba đạo sĩ, ngày hôm nay chẳng ai lên án sự cứng lòng của triều thần Hêrôđê ; có chăng, hãy kịch liệt phản đối, vì sao Chúa vẫn không ngừng tỏ vinh quang Chúa cho nhân loại chúng ta ?

Xã hội vẫn nói đến một ý tưởng vui vui đầy lạc quan: vô duyên đối diện thấy duyên liền, nhưng là đối diện với ai ? với người có duyên, người tài đức, hay đối diện với Hài nhi Giêsu ? Thực ra thì từ chối tình yêu, không tìm kiếm, không tiếp nhận Ngôi Lời làm người thì Thiên Chúa vẫn đến, Thiên Chúa vẫn tỏ ánh quang của Ngài cho khắp muôn dân thiên hạ. Hiện tại chúng ta đang cần quyền lực, cần tiền của vật chất, hay cần tình yêu thương như các mục đồng, như các đạo sĩ, Thiên Chúa thấu biết và Ngài sẽ thôi thúc, lay động, từng tâm hồn chúng ta đến với ơn bình an của Ngài. Cuộc tìm kiếm, hay thao thức đầu tư cho niềm an vui hạnh phúc, bao giờ cũng cần sự quyết tâm của chí khí. Hài nhi Giêsu, Đức Maria, Thánh Giuse, ở hang đá Belem năm xưa chỉ thinh lặng không nói gì, ấy thế mà các đạo sĩ vẫn bày tỏ lòng thành tâm thiện chí với lễ vật vàng, mộc dược và nhũ hương để dâng kính Chúa.

Cũng như các đạo sĩ năm xưa phát hiện “sao lạ”, họ đã mau chóng lên đường tìm kiếm, nếu không “sao lạ” đã trở nên chuyện tình cờ rồi tan biến thôi. Người kitô hữu hôm nay, được soi sáng để biết trách nhiệm và bổn phận đối với Hội thánh, với gia đình, nhưng chúng ta thiếu quyết tâm, không bày tỏ lòng thành, việc hiểu biết bổn phận cũng sẽ vô nghĩa mà thôi. Muốn xem bằng mắt, bắt bằng tay về dấu chỉ “sao lạ” thế nào, các đạo sĩ không thể ung dung ngồi ở nhà quan sát, ngắm nhìn, họ phải có thao thức lên đường tìm kiếm. Người Kitô hữu chúng ta muốn gặp Hài nhi Giêsu bằng mắt thường, chỉ cần qua Bí tích rửa tội và đến hang đá với ánh đèn nhấp nháy tại nhà thờ giáo xứ. Nếu muốn gặp Chúa bằng mắt tâm hồn, chúng ta cần bỏ tính ích kỷ mà cùng với anh chị em lên đường, cùng thực hành niềm tin của mình là muốn được gặp niềm vui ơn cứu độ.

Ngày hôm nay, ngôi sao lạ không xuất hiện dẫn lối chỉ đường như năm xưa, nhưng bằng ơn thiêng liêng, ánh quang của hang đá Belem vẫn không ngừng dẫn dắt mỗi tâm hồn đến với Hài nhi Giêsu. Tuy cách thế có khác xưa, Thiên Chúa vẫn cần đến lòng thành và sự quyết tâm của chúng ta. Tất cả những ai đang giầu nghèo, tài giỏi, hay đức độ, Hài nhi Giêsu sẽ rất vui, khi chúng ta đang mặc lấy tinh thần khiêm tốn kiếm tìm như các đạo sĩ, đều đáng gọi là người khôn ngoan của thời đại. Ngày hôm nay, dù đạo gốc, đạo mới, già hay trẻ, ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ còn đến với từng tâm hồn, từng gia đình, như Ngài hằng chiếu toả niềm vui ơn cứu độ của Ngài cho các đạo sĩ năm xưa. Amen.

 

 

DÕI THEO ÁNH SAO YÊU THƯƠNG

Lm. Giuse Nguyễn

Cuộc đời của mỗi Kitô hữu là một cuộc hành trình đi tìm Chúa. Chúng ta lên đường hằng ngày bằng chính sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban và cuộc đời mà chúng ta vẫn đang sống. Thế nhưng trong sự sống và cuộc đời này chúng ta có tìm gặp được Thiên Chúa không? Chắc chắn có những người tìm gặp như ba nhà đạo sĩ trong đoạn Tin Mừng hôm nay, và chắc chắn cũng có những không tìm gặp như Hêrôđê

Có nhiều lý do để chúng ta không tìm gặp được Thiên Chúa. Lý do thứ nhất là vì chúng ta không chịu lên đường. Lý do thứ hai là vì chúng ta không dõi theo ánh sao yêu thương mà dõi theo một ánh sao nào đó. Lý do thứ ba là vì sau khi đã lên đường, đã tìm gặp Chúa rồi, chúng ta không đi theo con đường khác theo lời của Chúa mà vẫn trở về con đường cũ nên tình yêu thương không lưu lại trong đời sống chúng ta.

Sau khi đã biết được những lý do khiến chúng ta không thể tìm gặp được tình yêu thương là chính Chúa, chúng ta hãy một lần nữa lên đường nhưng biết khắc phục những cản trở mà chúng ta vừa tìm hiểu.

Trước hết muốn tìm gặp Chúa thì đòi hỏi chúng ta phải lên đường. Vua Hêrôđê và những người cầm quyền trong dân biết rõ vua dân Do Thái sinh ra “Tại Bê lem, miền Giuđa” nhờ dựa vào Thánh kinh, nhưng họ không lên đường nên không gặp. Ngược lại, những nhà đạo sĩ không biết “Đức vua dân Do Thái, mới sinh hiện ở đâu?” vì họ là những người ngoại đạo, thế nhưng họ đã lên đường dõi theo ánh sao lạ để đi tìm và họ đã gặp. Lên đường chính là đời sống đạo của chúng ta. Có những người nói rằng: “Đạo hả, tôi một bụng nè!” nhưng chẳng thấy họ đến nhà thờ, chẳng thấy họ giữ đạo và sống đạo. Như vậy dù cho đạo ngập lút đầu họ đi nữa chứ không cần một bụng, họ vẫn không thể gặp Chúa, vì họ chưa lên đường. Ngược lại có những người hiểu biết về đạo, về Chúa ít lắm, nhưng họ vẫn cố gắng để giữ đạo cho đàng hoàng, vẫn nỗ lực để sống tốt hơn mỗi ngày… thì chắc chắn họ sẽ được gặp vì họ đã lên đường.

Kế đến, cuộc hành trình của chúng ta phải dõi theo ánh sao. Muốn tìm gặp Chúa thì chúng ta phải để cho ánh sáng của Chúa soi dẫn và đi trong chân lý của Chúa. Muốn tìm Chúa mà chúng ta cứ để cho những thế lực khác ngoài Chúa soi dẫn thì làm sao gặp Chúa được. Điều này tôi nói một cách thẳng thừng chính là tình trạng mê tín dị đoan mà nhiều gia đình và nhiều người vẫn còn đang mắc phải. Khi mê tín dị đoan có nghĩa là chúng ta đang dõi theo một ánh sao khác chứ không phải ánh sao chân lý của Chúa. Nếu chúng ta cứ mãi ở trong tình trạng như vậy thì không bao giờ gặp được Chúa; không phải vì Chúa không cho gặp, mà tại vì chúng ta đã đi theo ánh sao khác. Khi chứng kiến những tình trạng mê tín dị đoan, nhiều người rất đau lòng. Đau lòng vì Chúa đã bị phản bội, nhưng càng đau lòng hơn nữa khi con người đã bán rẻ linh hồn của mình.

Có nhiều người khi được nhắc nhở, động viên, khích lệ, hoặc là có dịp gì đó chẳng hạn như lễ Giáng Sinh, Tết, lễ Phục Sinh… họ đi xưng tội rước lễ, và đời sống của họ thay đổi rất rõ ràng. Thế nhưng được vài tuần, hoặc vài tháng là họ lại trở về với con đường cũ. Họ đã gặp Chúa nhưng không lưu lại với Chúa được. Chúng ta nhớ rằng những nhà đạo sĩ sau khi đã thờ lạy Chúa, được thiên thần báo mộng “họ đã đi lối khác mà về xứ mình”, vì nếu họ trở về đường cũ thì chắc chắn họ sẽ chết. Chúng ta cũng vậy, sau khi đã gặp Chúa, chúng ta phải đi con đường khác, có nghĩa là biết từ bỏ con đường cũ, con đường xấu xa tệ hại của mình. Để từ bỏ con đường cũ, đòi hỏi chúng ta phải can đảm, bởi vì thường thì chúng ta quen với con đường cũ, quen đến mức nhắm mắt cũng đi tới nữa mà! Xưng tội bài bạc, cá độ, đá gà… nhưng bỏ được vài tuần thôi chúng ta lại trở về với con đường cũ vì nó quen và hấp dẫn quá. Muốn bỏ được con đường cũ, đòi hỏi chúng ta phải có con đường mới, có nghĩa là thay vì những công việc bất chính mình phải có những công việc ngay chính. Thay vì để cho những đam mê xấu lôi kéo mình, hãy để cho những công việc tốt lành hấp dẫn chúng ta…

Các gia đình, nhất là các gia đình trẻ phải suy niệm đoạn Tin Mừng này thật nhiều để làm nền tảng cho đời sống gia đình của chúng ta. Kết hôn chỉ là khởi đầu cho một hành trình dài, các bạn đã lên đường, hãy tiếp tục lên đường cùng với người bạn đời, và sau này cùng với con cái chúng ta. Hãy để cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn đời sống đức tin của chúng ta. Phải tuyệt đối không tin vào những hình thức bói toán, mê tín dị đoan, vì nó chính là những ánh sao “quái thai, dị hợm”. Cố gắng từ bỏ những sai trái có nguy cơ giết chết đời sống gia đình như bài bạc, rượu chè, đam mê hút sách…

Tóm lại, lễ Hiển Linh hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại hành trình theo Chúa của mình. Tôi có lên đường mỗi ngày bằng cách sống đạo tích cực chưa? Tôi có dõi theo ánh sao của Chúa hay dõi theo ánh sao nào khác bằng hình thức mê tín dị đoan hay không? Tôi có đi con đường khác khi trở về với Chúa hay tôi vẫn thích trở về với con đường cũ? Xin ơn Chúa giúp để cuộc hành trình của chúng ta tìm gặp được chính Chúa là tình yêu và lưu lại với Ngài mỗi ngày một sâu sắc hơn.

 

 

ĐƠN SƠ NHƯ BA ĐẠO SĨ

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Khi đến thủ đô Giêrusalem, ba Đạo Sĩ dừng lại tại đền vua Hêrôđê để tìm Hài Nhi vì ngỡ rằng, Thiên Chúa làm người phải sinh ra ở nơi sang trọng, đài cát. Nhưng không, Thiên Chúa làm người mà Hêrôđê sợ Người tranh giành ngôi vua của mình, chẳng màn chi đến vinh hoa trần thế, chẳng thèm một chút bã phù phiếm thế gian.

Còn Hêrôđê, kẻ rắp tâm thủ tiêu Hài Nhi làm sao có thể gặp được Đấng Thiên Chúa làm người? Bởi lòng ông đầy thủ đoạn, độc ác, tranh giành, say sưa trong vinh quang trần thế, vì thế, đến muôn đời, Hêrôđê không bao giờ gặp được Đấng mà lẽ ra mình phải tôn thờ, phải thần phục.

Cả những thượng tế, kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở, nhưng không tin Thiên Chúa hiện diện giữa cõi đời. Còn các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Tất cả họ cùng chung những điểm giống nhau, đó là: Hiểu biết về luật Chúa, về Kinh Thánh, gìn giữ đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa, được dân chúng kính trọng, được hưởng lợi lộc từ tôn giáo… nhưng thật trớ trêu, thật nghịc lý: Tất cả họ đều xa cách Thiên Chúa, giuột mất ơn cứu độ.

Cũng vậy, cuộc sống quanh ta hôm nay cũng đầy dẫy những người được coi là xuất chúng, uyên thâm, nhiều nhà khoa học tài giỏi, nhiều người vô thần lãnh nhiều chức tước trong chính trị, nhiều triết gia lý luận sắc bén, nhiều người thành đạt trong nhung lụa, nhiều người đỗ đạt hết bằng cấp này đến bằng cấp khác… nhưng có ai trong họ đã nhìn thấy ánh sáng từ trời cao chiếu soi cõi lòng con người!

Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của tất cả mọi người đơn sơ, tâm thành, hướng thiện mà thôi. Ba Đạo Sĩ đã cúi mình bước vào hang đá để kính thờ Hài Nhi, không ngai vàng, không quyền lực, nghèo đến nỗi phải sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ… Nhưng họ có tình yêu, có lòng sốt mến, có sự chân thành. Họ đã gặp Đấng là Thiên Chúa của lòng họ.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được mang lấy tinh thần và lẽ sống của các Đạo Sĩ, đó là từ tâm, rộng lượng, biết sống vì Chúa, vì anh chị em…, để chúng con có thể gặp Chúa trong cuộc đời, trong cõi lòng mình, và qua từng anh chị em, từng biến cố của cuộc đời chúng con, suốt mọi ngày của đời chúng con. Amen.

 

 

TÍNH PHỔ QUÁT CỦA ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Kế hoạch của Thiên Chúa là muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu độ (x.1Tm 2,3-4). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định về tính phổ quát của ơn cứu độ rằng: “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Eph 3,5-6). Như thế, ơn cứu độ không dành riêng cho một ai, cho một dân tộc nào. Họp mừng lễ Hiển linh hay là lễ Chúa tỏ mình cho muôn dân, Hội Thánh không gì hơn là muốn khẳng định với chúng ta rằng ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người, mọi thời, mọi hoàn cảnh, đồng thời cảnh báo chúng tránh xa thái độ cao ngạo độc quyền chân lý, và mặt khác dạy ta cần tích cực sẻ chia cho tha nhân kho tàng ân sủng mình đã lãnh nhận theo khả năng và hoàn cảnh của mình.

Ơn cứu độ là dành cho mọi người. Ngôn sứ Isaia loan báo cảnh huy hoàng rực rỡ của Giêrusalem và chư dân Đông Tây, sẽ tay bế tay bồng dìu nhau đến thờ lạy, ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa (x.Is 60,3-5). Thiên Chúa là Đấng công bình và đầy tình lân ái. Người tỏ mình cho mỗi người mỗi cách khác nhau tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của họ. Chúa công bình vì Người tỏ mình cho tất cả mọi người, chẳng trừ một ai. Chúa lân ái nên Chúa tỏ mình bằng nhiều cách thế, để mỗi người theo mỗi hoàn cảnh có thể gặp được Người.

Với những người chăn chiên cừu, vốn ít học nhưng đơn sơ chất phác, thì lời loan báo của vị Thiên Sứ cùng với tiếng hát của đoàn cơ binh Thiên Thần trong ánh sáng huy hoàng quả là một sứ điệp không gì bằng. Dòng lịch sử minh chứng cho ta sự thật này: Chúa Kitô, Mẹ Maria thường hiện ra với những người thôn quê, nghèo hèn nhiều hơn là với những người trí thức, học cao, hiểu rộng hay chốn thị thành. Với các nhà đạo sĩ Đông phương, thì sự xuất hiện một ánh sao lạ trên bầu trời hẳn là một lời mời gọi thiết thực với những “chuyên gia thiên văn”. Còn với các kinh sư, các Thượng tế Do thái giáo, thì thử hỏi có gì quan trọng cho bằng Thánh Kình. Chúng ta không quên việc họ thường mang Lời Chúa được ghi trên các dải vải đính ở tay áo. Thế thì một duyên cớ để họ đọc lại lời của Ngôn sứ Mikêa: “Phần người, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mk 5,1), quả là một lời mời gọi hay nói cách khác, là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách tuyệt vời cho họ. Rồi với Vua Hêrôđê, một vị vua trần thế vốn tham quyền cố vị, thì câu hỏi của các nhà đạo sĩ Đông phương: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu?” đích thực là một sự tỏ mình của Thiên Chúa cách đúng đối tượng.

Thiên Chúa luôn tỏ mình ra với mọi người theo cách thức Người chọn, phù hợp với từng người theo từng hoàn cảnh, số phận khác nhau của họ. Như thế, ta có thể nói là bất cứ ai cũng đều có thể tìm gặp chân lý, đều có thể tìm đến cội nguồn hạnh phúc vĩnh cửu theo khả năng, hoàn cảnh của mình. Giáo lý Công giáo khẳng định rằng ngoài phép rửa bằng nước còn có phép rửa bằng máu và bằng lòng mến. Thánh Công đồng Vatican II dạy chúng ta: “Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh cứu độ của Đức Kitô, tham dự bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết mà thôi (MV số 20). Ơn cứu độ là dành cho muôn dân, vì thế chúng ta có thể rút ra một vài hệ luận như tất yếu sau:

Không được phép độc quyền chân lý: chân lý không thuộc riêng một ai, một tập thể nào. Khi ta độc quyền chân lý cách này cách khác là khi ta tự biến mình thành ngẫu tượng. Cần phải bỏ dần thái độ cao ngạo tự tôn của một thời quá khứ khi ta đồng hoá mọi niềm tin, tôn giáo khác ta đều là lầm lạc, là ma quỷ, bụt thần… Cần phải minh định rằng “không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Kitô” (x.Ga 14,6). Tuy nhiên cũng cần cảnh giác thái độ tự tôn cho rằng “ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ”, một thái độ thiếu tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (x.Ga 3,8). Khi ta có thái độ độc quyền chân lý là lúc ta tưởng như mình đã nắm trọn vẹn chân lý và hữu ý hay vô tình ta đã rơi vào chước cám dỗ của Satan ngày xưa khi cám dỗ tổ tiên loài người: Cứ ăn trái cấm này đi thì hai ông bà sẽ nên như Thiên Chúa, biết được điều lành điều dữ (x.St 3,5).

“Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” (Ga 6,45). Thiên Chúa tỏ mình cho mỗi người mỗi cách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên để nhận biết Thiên Chúa, phần phía con người cũng cần có sự đáp trả cân xứng. Một vài thái độ đáp trả cần có đó là:

Một tâm hồn biết lắng nghe: đây là thái độ khiêm nhu chân thành, luôn khao khát tìm về chân, thiện, mỹ. Người có tâm hồn biết lắng nghe là người có tấm lòng thành trước những những gì là chính đáng, là phải đạo. Các nhà đạo sĩ Đông phương và những người mục tử thôn dã lúc bấy giờ là những người có tấm lòng thành. Tấm lòng thành ở đây được hiểu như là sự hướng thượng và hướng thiện. Quân vương Hêrôđê chắc chắn không có tấm lòng thành. Các thượng tế, kinh sư ở thành Giêrusalem lúc bấy giờ thì ta không dám quả quyết nhưng chắc chắn họ thiếu động thái lên đường, ra đi.

Một động thái lên đường, ra đi: Khi đã nhận ra tiếng nói của chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu, thì cần phải lên đường, ra đi. Chân lý toàn thiện, tình yêu vĩnh cửu đòi hỏi chúng phải ra đi khỏi cái vị thế hiện tại. Không một ai ở trần gian này có thể nắm được tình yêu vĩnh cửu hay chân lý toàn thiện. Tất thảy đều ở phía trước, chính vì thế cần phải lên đường, ra đi. Các thượng tế và kinh sư ở thành Giêrusalem năm nào dù đã nhận ra Ánh Sáng cứu độ nhưng vì họ đã không lên đường nên không thể gặp được Đấng Cứu Thế. Trái lại khi nhận được dấu chỉ mời gọi, các đạo sĩ Đông phương và các mục tử đã biết lên đường, ra đi. Ra đi là chấp nhận từ bỏ. Lên đường là chấp nhận hy sinh và gian khó. Có một cái khó mà không dễ gì vượt qua hay từ bỏ, đó là những tập tục hay truyền thống mang tính nhân loại. Chúng dễ nhận ra sự thật này nơi nhiều người biệt phái, luật sĩ, tư tế thời Chúa Giêsu, khi Người công khai rao giảng tin mừng.

Chân lý đã thực sự hoàn hảo và đầy đủ nơi Chúa Kitô, Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (x.Col 1,15; Dt 1,1-2). Nhưng chúng ta, dù là giáo dân hay giáo sĩ, dù là thần học gia hay “xứng với bậc tông đồ” thì cũng chỉ nhận biết chân lý kiểu như thấy trong tấm gương đồng. “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1Cor 13,12).

Ra khỏi tháp ngà tự mãn cho rằng đã nắm được trọn vẹn chân lý, ra khỏi tháp ngà độc quyền chân lý là cách thế tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Hiển linh, Chúa tỏ mình cho muôn dân cách thiết thực, hữu hiệu và khả tín. Không ngừng kiếm tìm và đón nhận chân lý là một thái độ khiêm nhu vừa có tính giải thoát và tính truyền giáo. Sự thật không chỉ giải thoát chúng ta, mà còn có sức cuốn hút những tâm hồn thiện chí. Và như thế sự thật sẽ làm cho chúng ta xích lại gần nhau, làm cho chúng ta nên một bằng cách thánh hiến chúng ta (x.Ga 17,17).

Mừng mầu nhiệm Chúa Hiển Linh, ước gì chúng ta mãi luôn nuôi dưỡng cái tấm lòng thành nơi chúng ta bằng thái độ khiêm nhu biết lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần. Lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần không chỉ trong Thánh Kinh, trong các cử hành Phụng vụ, trong lời dạy của Hội Thánh…mà còn trong các biến cố lịch sử, trong các nét đẹp thánh thiêng nơi các niềm tin, tôn giáo ngoài Công giáo, nơi các nghĩa cử cao đẹp của những người chưa tin hay chưa nhận biết Thiên Chúa. Lắng nghe không phải để đứng nhìn mà để can đảm lên đường tìm kiếm và đón nhận chân lý. Sự thật toàn vẹn luôn ở phía trước, vì có đó nhiều điều ngay các Tông đồ vẫn chưa thấu hiểu. Chính Thánh Thần là Đấng sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x.Ga 16,12-13). Người là Đấng đang mãi hoạt động cho đến ngày Đức Kitô lại đến trong vinh quang. Không ai có thể trao ban điều mình không có. Tích cực tìm kiếm và đón nhận chân lý là tiền đề tất yếu để ta chia sẻ cho tha nhân hồng ân cứu độ.

 

 

LỄ VẬT ĐỜI TA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Họ vào nhà thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Lc 2,11)

Họ đây là Các nhà chiêm tinh. Họ từ Phương Đông đến Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Hài Nhi mới sinh. Người mà họ đã thấy Ngôi Sao xuất hiện trên trời Đông. Sau khi hỏi han và được Ngôi Sao lạ dẫn đường, họ đã tới Bê-lem và thấy Hài Nhi. Họ sấp mình thờ lạy Người và dâng vàng, nhũ hương và mộc dược.

Ba của lễ dâng này có ý nghĩa gì đây ? Họ dâng VÀNG, có ý Hài Nhi là Vua. NHŨ HƯƠNG, có ý Hài Nhi là Chúa. MỘC DƯỢC, có ý Hài Nhi sẽ chết và sẽ được ướp xác. Quả thật, Đức Giê-su, dù là VUA, dù là CHÚA, nhưng để cứu độ con người, Ngài đã bị giết trên thập giá, được ướp xác và mai táng trong mộ.

Không chỉ dừng ở đó, Đức Giê-su đã sống lại sau ba ngày trong mộ, rồi lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Chính lúc đó, Đức Giê-su được tôn phong là Vua vũ trụ và là Chúa muôn loài. Bây giờ Đức Giê-su không cần đến vàng, nhũ hương và mộc dược nữa. Vậy thì ta sẽ dâng Chúa gì đây?

Ta sẽ dâng lên Chúa những gì quí như Vàng, những gì thơm như Hương và những gì để ướp thân xác và linh hồn của ta.

Những gì quí như Vàng ? Đó là sự sống; sự sống thân xác và sự sống linh hồn của ta. Đó là sự sống đời này và sự sống đời đời của ta. Tại sao Sự Sống lại quí như Vàng ? Trên đời này, có gì quí hơn sự sống của ta. Bởi đó ta phải lo lắng và gìn giữ sự sống của ta. Ta chỉ sống có một lần trên đời này và sẽ được sống mãi mãi ở đời sau.

Ta phải lo lắng và giữ gìn sự sống thân xác của ta bằng cách chú ý đến việc ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc của ta. Ta phải ăn gì và uống gì; ta phải ngủ nghỉ và làm việc thế nào để thân xác ta mạnh khỏe, cường tráng. Ta phải ăn uống những gì bổ dưỡng và tốt cho cơ thể của ta. Ta phải ngủ nghỉ đúng giờ và đủ giờ; ta phải làm việc điều độ, đừng quá sức, kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe.

Về sự sống linh hồn, ta phải lo cầu nguyện; nghe và sống Lời Chúa; tham dự thánh lễ và rước lễ. Những việc đó bồi bổ linh hồn ta khỏe mạnh, ta sẽ có một đời sống nội tâm sâu sắc; một tinh thần vững mạnh, một đức tin vững bền, một đức mến nồng nàn và một niềm cậy trông vững chắc.

Một điều quí nữa, đó là thời gian. Người ta nói: “Thời gian là vàng” mà. Đó là thời gian mà ta được sống trên trần gian này. Có giỏi lắm thì ta sống khoảng 100 năm. Tính ra ta sẽ được sống 36.500 ngày hay 876.000 tiếng đồng hồ. Ta phải dùng thời gian đó để làm việc, lấy tiền nuôi thân xác ta; Ta phải dùng thời giờ đó để cầu nguyện và làm những việc lành phúc đức để nuôi dưỡng linh hồn ta và ta dùng thời gian đó để chuẩn bị cho đời sau của ta. Sở dĩ thời gian nói quí là vì một khi đã qua, nó không bao giờ trở lại.

Nó chạy theo đường thẳng, không có số de; dù cho một ngày, một tuần, một tháng, một năm có quay trở lại, nhưng nó chạy theo đường thẳng chứ không theo đường vòng. Càng ngày thân xác ta càng tiến gần đến đất và linh hồn ta tiến gần đến trời. Bởi đó mà ta phải quí từng giờ, từng phút, từng ngày ta còn được sống và đừng lãng phí thời gian Chúa ban. Ta hãy dâng Sự sống và thời gian đó của ta lên Chúa. Đó là Vàng của ta đó.

Nhũ hương của ta là gì? Đó là những lời cầu nguyện; những hy sinh trong cuộc sống; những khó khăn, những bệnh tật; những thất bại; những vất vả; những sầu đau. Rồi những việc lành phúc đức, những niềm vui, những hạnh phúc, những thành công. Ta hãy dâng lên Chúa những của lễ đó mỗi ngày hay mỗi khi ta tham dự thánh lễ.

Một mùi hương không thể thiếu nữa, đó là “Hương thơm của Tin Mừng”, nghĩa là mỗi khi ta nghe và sống Tin Mừng. Việc sống Tin Mừng này giúp ta tỏa hương thơm thánh thiện, giúp ta nên thánh nên thiện, qua việc sống yêu thương, công bằng, khó nghèo, vâng phục, đơn sơ, khiêm nhường. Đây có lẽ là của lễ Chúa ưa thích nhất.

Mộc dược của ta là gì? Như ta đã biết mộc dược là để ướp xác và giữ gìn xác sau khi chết còn nguyện vẹn không hư hoại hay hôi thối. Bây giờ ta không cần ướp xác làm chi, vì ta mà chết thì sau đó người ta đem chôn hay hỏa táng rồi, không giữ lâu làm gì. Nhưng những gì mà ướp xác, ướp hồn ta bây giờ để thân xác ta thơm tho và linh hồn ta trong sạch mới là quan trọng. Để thân xác ta thơm tho, ta phải tắm rửa, vệ sinh. Để linh hồn ta trong sạch thì ta cần Lời Chúa và ơn Chúa, cũng như sự cố gắng của chính mình, để ta có một cái tâm thiện, một con người đạo đức, khiêm nhu, nhiệt thành, siêng năng, tốt lành, thánh thiện.

Đó là Vàng, Nhũ hương và Mộc dược của ta, ta hãy dâng lên Chúa Hài Nhi, chắc Chúa sẽ hài lòng về những của lễ đó và của lễ đó sẽ là hành trang giúp ta từ đất tiến về trời cách an toàn, bình an và hạnh phúc.

 

 

 

ĐỂ NÊN ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN

Lm. Đan Vinh

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Mt 2,1-12

(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem (2) và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. (3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu? (5) Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: (6) “Phần ngươi hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. (7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin qúi ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho Trẫm, để Trẫm cũng đến bái lạy Người”. (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

  1. Ý CHÍNH: NHỜ ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG, DÂN NGOẠI ĐÃ TÌM THẤY CHÚA.

Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có mấy đạo sĩ từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ đi tìm Đấng Cứu Thế. Nhờ ánh sao dẫn đường và sau khi vượt qua nhiều trở ngại, cuối cùng các ông đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế. Các ông đã biểu lộ đức tin bằng thái độ sụp lạy và tiến dâng lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Sau đó, các ông vâng lời thiên thần để theo con đường khác trở về quê hương.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1-2: +Vua Hê-rô-đêĐây là Hê-rô-đê Đại Vương, một con người đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị, băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2,15). Phân biệt với Hê-rô-đê An-ti-pa hay Hê-rô-đê Con, kế vị vua cha cai trị xứ Ga-li-lê. Hê-rô-đê Con cũng độc ác không kém vua cha. Chính ông đã ra lệnh chém đầu Gio-an Tẩy Giả và có lần đã xét xử Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn của Người. +Mấy nhà chiêm tinhCũng gọi là đạo sĩ, đến từ phương Đông (x. Ds 23-24). Đây là những nhà thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ dâng mà người ta quả quyết có 3 vị. Truyền thuyết dân gian còn kể tên 3 vị ấy: Melchior da trắng ; Gaspar da vàng ; Balthaza da đen để nói lên rằng: Ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, màu da hay tiếng nói, không chỉ riêng cho dân Do Thái.

– C 5-6: +Họ trả lời: “Tại Bê-lem.”..Có một sự đối nghịch về thái độ đối với Đấng Cứu Thế giữa dân Do Thái và lương dân: Các thượng tế và kinh sư là những người dựa vào Kinh Thánh biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế là Bê-lem, nhưng lại thờ ơ. Đang khi dân ngoại vất vả đi tìm Người. +Thành Bê-lem: Là một thị trấn nhỏ thuộc miền núi xứ Giu-đê, cách Giê-ru-sa-lem 10 cây số về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt).

– C 7-8: +Hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiệnVì Hê-rô-đê muốn biết đích xác tuổi của Hài Nhi Cứu Thế và đã ra lệnh cho quân lính giết các trẻ nam tại Bê-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống.

– C 9-10: +Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họĐây là một ngôi sao có những đặc tính khác thường như: Lúc ẩn lúc hiện, lúc đi trước dẫn đường và lúc thì dừng lại… do Thiên Chúa ban, để trợ giúp các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi Cứu Thế.

– C 11-12: +Họ vào nhàChắc chắn sau đêm Chúa giáng sinh, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a không tiếp tục cư ngụ tại cánh đồng Bê-lem vì thiếu các tiện nghi tối thiểu mà đã vào thị trấn Bê-lem thuê một căn nhà ở tạm.+ Sấp mình bái lạy NgườiCác đạo sĩ biểu lộ đức tin Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa+ Lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiếnCác nhà chiêm tinh dâng lên Hài Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược, là đặc sản của quê hương các ông. Vàng tượng trưng đức tin, nhũ hương tượng trưng đức cậy và mộc dược tượng trưng đức mến. Theo các giáo phụ thì Vàng ám chỉ tước vị Vua, nhũ hương chỉ tước vị Tư Tế, mộc dược ám chỉ cuộc tử nạn và mai táng bằng dầu thơm sau này. + Đi lối khác về xứ mìnhHê-rô-đê không thể chống lại quyền năng, tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Những ai chống lại Thiên Chúa sớm muộn cũng sẽ thất bại và chuốc lấy hậu quả tai hại cho mình mà thôi.

  1. CÂU HỎI: 1- Phân biệt Hê-rô-đê Đại Vương khác với vua Hê-ro-đê An-ti-pa thế nào trong sự đối xử với Đức Giê-su và về sự gian ác quỷ quyệt? 2- Các nhà chiêm tin trong Tin Mừng có phải là vua không? Vì sao người ta gọi là 3 vua và theo truyền thuyết thì tên ba vị là gì và mang ý nghĩa như thế nào? 3- Các thượng tế và kinh sư Do thái dựa vào đâu mà nói nơi sinh của Đấng Cứu Thế là Bê-lem? So sanh giữa thái độ của các nhà thông thái của dân Do thái và của các đạo sĩ ngoại giáo trước việc Đấng Cứu Thế ra đời như thế nào? 4- Hê-rô-đê hỏi về ngày giờ ngôi sao lạ xuất hiện để làm gì? 5- Các đạo sĩ biều lộ đức tin thế nào khi gặp Hài Nhi Cứu Thế? 6- Ý nghĩa tượng trưng của ba lễ vật các đạo sĩ dâng là gì? Các giáo phụ giải thích ba lễ vật như thế nào?

 

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚACó mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ LỚN LAO CỦA MỘT CÂY NẾN NHỎ:

Vào một đêm mưa bão, ngọn đèn hải đăng đột nhiên bị mất điện tắt ngúm. Người phụ trách vội vã đốt một cây nến nhỏ và đi theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt cây đèn lồng lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng: “Ông đem tôi đi đâu vậy?” Ông ta trả lời: “Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để ngươi chiếu ánh sáng giúp cho tàu bè từ ngoài khơi biết con đường cập bến an toàn”. Cây nến lại nói: “Nhưng tôi chỉ là một cây nến bé nhỏ thế này, mà tàu bè lại ở tít ngoài khơi kia, thì hoa tiêu làm sao nhìn thấy ánh sáng yếu ớt của tôi được?”. Người phụ trách trả lời: “Lúc này ta chỉ cần ngọn nến nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta định liệu!”. Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa vào cây đèn lồng. Sau một giây lát, ánh sáng từ cây đèn lồng đã rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể sử dụng thay cho đèn pha điện. Ánh sáng của đèn lồng có sức chiếu xa đến tận ngoài khơi, để nhờ nó mà tàu bè có thể định hướng để cập bến an toàn.

2) GẶP CHÚA QUA THA NHÂN:

Noi gương các vị đạo sĩ trong Tin Mừng, một cậu bé kia cũng muốn tìm gặp Chúa. Một hôm cậu thức dậy sớm lén vào trong nhà bếp lấy một số bánh nướng mẹ cậu mới làm cho vào chiếc túi xách và mang theo một chai nước để ăn uống trong cuộc hành trình tìm Chúa.

Sau khi đã rời khỏi nhà được một tiếng đồng hồ, đi ngang qua một công viên thì thấy một bà lão đang ngồi một mình trên một chiếc ghế. Bà đang chăm chú nhìn các chú chim bồ câu bay nhảy trên cành cây gần đó. Cậu bé liền đến ngồi cạnh bà lão để nghỉ chân. Cậu mở túi xách lấy ra một chiếc bánh nướng ăn trước mặt bà lão. Nghĩ rằng bà đang đói nên cậu đã lấy một chiếc bánh ra mời. Bà lão nở nụ cười thật tươi với cậu. Nụ cười đáng yêu đến nỗi cậu bé lại muốn nhìn thấy một lần nữa nên tiếp tục mời bà ăn thêm. Khi chiếc bánh cuối cùng đã hết, cậu lấy bình nước mang theo rót ra nắp bình mời bà uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà khiến cậu cảm nhận được sự dịu dàng ấm áp. Họ ngồi bên nhau nhiều giờ, cùng nhau ăn uống nhưng không nói lời nào với nhau.

Mãi đến khi trời tối cậu bé mới đứng dậy quay về nhà. Nhưng đi được vài bước, cậu liền quay lại ôm bà để từ biệt và cũng cám ơn về món quà cậu nhận được là nụ cười dịu dàng ấm áp của bà.

Khi cậu bé về đến nhà, mẹ cậu rất ngạc nhiên khi thấy nét mặt vui tươi rạng rỡ của cậu liền hỏi:

– Con có gì mà vui vẻ vậy?

Cậu bé đáp:

– Hôm nay con đã gặp Chúa và đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười rất đẹp!

Trong khi đó bà lão cũng quay về ngôi nhà ở gần công viên. Đứa con trai nhận ra nét hân hoan trên gương mặt mẹ liền hỏi:

– Hôm nay mẹ có chuyện gì mà vui vẻ vậy?

Bà lão đáp:

– Trưa hôm nay mẹ đã được Chúa đến thăm tại công viên. Mẹ đã ngồi ăn bánh với Chúa bên mấy chú chim câu rất dễ thương. Con biết không, Chúa trẻ hơn mẹ nghĩ rất nhiều !

3) HÃY PHỤC VỤ CHÚA CÁCH CỤ THỂ:

Ngày lễ Giáng Sinh một bé gái cùng đi với mẹ đến viếng hang đá. Bà mẹ đã giải thích cho con về việc ba nhà Đạo sĩ đã tiến dâng Chúa Hài Nhi ba lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược. Bấy giờ cô bé liền chăm chú nhìn Hài Nhi Giê-su đang phải nằm trong máng cỏ và quay sang hỏi mẹ: “Mẹ ơi, tại sao các Đạo sĩ lại không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái nôi để nằm hả mẹ ?”

Với một tấm lòng yêu thương và một sự quan tâm thực sự, cô bé đã cảm nhận được điều Hài Nhi Giê-su đang cần chính là một chiếc nôi để nằm thay vì nằm trong máng ăn của chiên cừu. Mỗi người chúng ta đều cần cơm ăn áo mặc hằng ngày và một ngôi nhà để trú ngụ. Ngày nay Chúa Giê-su vẫn luôn hiện thân nơi người nghèo và đang chờ được chúng ta quan tâm trợ giúp như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

4) YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ CHÍNH LÀ ÁNH SÁNG GIÚP THA NHÂN TIN YÊU CHÚA:

Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. Ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối khiến họ lo âu sợ hãi vì nghe nói đoạn đường này thường xảy ra cướp bóc. Do biết sửa xe hơi, nên người ấy đã dừng xe và tự nguyện đến giúp. Do xe bị hư nặng không thể khởi động được, nên ông ta phải chui vào gầm xe tháo ráp từng bộ phận. Đến khi trời tối mịt xe mới nổ máy lại được. Mọi người trong gia đình đều vui mừng ra mặt. Ông bố muốn trả tiền công hậu hĩ cho người sửa xe, nhưng ông kia đã từ chối vì ông chỉ giúp vì tình người. Ông bố liền xin địa chỉ để sẽ đến nhà thăm khi về lại thành phố. Rồi khi lên thăm, cả gia đình mới biết địa chỉ đó là tòa giám mục, và người giúp sửa xe hôm trước không ai khác hơn là chính đức giám mục của giáo phận. Mọi người trong gia đình đều cảm phục về lòng nhiệt tình phục vụ tha nhân vô vụ lợi của vị giám mục và đã tình nguyện xin theo đạo công giáo.

  1. SUY NIỆM:

Lễ Hiển Linh hôm nay cũng được gọi là lễ Ba Vua. Đây là một đại lễ được Giáo hội Công giáo Đông phương và các Giáo hội Chính thống mừng rất long trọng, vì hôm nay Thiên Chúa vô cùng lớn lao đã tỏ mình cho chư dân qua hình hài một trẻ thơ Giê-su yếu đuối nghèo khó. Tin mừng Mát-thêu thuật lại câu chuyện như sau: có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Ðông quan sát các vì sao trên trời đã phát hiện một ngôi sao lạ. Ngôi sao này chính là dấu cho biết Ðấng Thiên Sai của dân Do thái đã ra đời. Các đạo sĩ lập tức mang theo lễ vật lên đường tìm kiếm Hài Nhi Cứu Thế theo ánh sao dẫn đường. Sau nhiều ngày và vượt qua nhiều khó khăn dọc đường, cuối cùng các đạo sĩ đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế Giê-su tại Be-lem. Các ngài đã bái lạy và tiến dâng Hài Nhi 3 lễ vật mang theo từ quê hương là vàng, nhũ hương và mộc dược. Rồi vâng lời sứ thần mộng báo “Đừng trở lại với vua Hê-rô-đê tàn ác”, các ngài đã theo lối khác để trở về quê hương mình (x. Mt 2,12).

1) HAI CÁCH ĐỂ GẶP ĐƯỢC CHÚA:

– Gặp Chúa qua thiên nhiên: Các đạo sĩ do quan sát bầu trời nhìn thấy ánh sao lạ và nhận ra đó là dấu hiệu cho biết Đấng Cứu Thế đã ra đời.

– Gặp Chúa trong Thánh Kinh: Các kinh sư Do thái thì nhận biết Đấng Cứu Thế qua Sách Thánh.

– Hai cách bổ túc cho nhau: Ánh sao dẫn đường đột nhiên biến mất khi đến thủ đô Giê-ru-sa-lem khiến các ông mất phương hướng. Tuy vậy, các ông đã không nản lòng quay về mà tìm đến hoàng cung hỏi thăm: “Đức Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Nghe vậy, vua Hê-rô-đê bối rối và dân chúng thì xôn xao. Bấy giờ nhà vua liền mời các kinh sư hiểu biết Kinh thánh đến để biết về nơi sinh của Đấng Cứu Thế, rồi chỉ đường cho các đạo sĩ hãy đến thành Be-lem. Nhờ ánh sáng Lời Chúa và ánh sao dẫn lối, cuối cùng các đạo sĩ đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế Giê-su.

– Qua đó cho thấy: Vũ trụ thiên nhiên tuy giúp người ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng để gặp được Chúa Cứu Thế và nhận được ơn cứu độ của Người, thì đòi người ta còn phải năng học sống Lời Chúa trong Thánh Kinh và tìm hiểu giáo lý của Hội Thánh Công giáo.

– Một vấn nạn được đặt ra: Tại sao vua Hê-rô-đê và các kinh sư Do thái hiểu biết Thánh Kinh, có thể dạy các đạo sĩ về nơi Đấng Cứu Thế sinh ra là Be-lem, nhưng chính họ lại không gặp Chúa và không nhận được ơn cứu độ của Người? Thưa chính là do thiếu đức tin: vua Hê-rô-đê muốn tìm kiếm Đấng Thiên Sai không phải để tin nhận Người mà chỉ nhằm để tiêu diệt Người. Còn các Kinh sư Do-Thái tuy biết Chúa nhưng lại không thiết tha đi tìm nên đã không gặp được Người. Để gặp được Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Người thì điều quan trọng là phải năng suy niêm Lời Chúa và còn phải quyết tâm thực hành theo Lời Chúa dạy trong cuộc sống hằng ngày nữa.

2) LÀM GÌ ĐỂ GIÚP THA NHÂN NHẬN BIẾT CHÚA?:

– Phải tránh thái độ gian ác của vua Hê-rô-đê: Vua Hê-rô-đê đã muốn tìm kiếm Chúa Cứu Thế để giết hại do sợ bị mất ngai vàng. Ông muốn bảo vệ địa vị quyền hành của mình bằng mọi giá, kể cả sẵn sàng ra tay giết tất cả các trẻ em vô tội tại Be-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống. Do đó, các đạo sĩ sau khi gặp Đấng Cứu Thế Giê-su, đã được thiên thần mộng báo đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê, nên đã đi theo con đường khác mà về xứ mình.

– Phải noi gương bền chí của các đạo sĩ: Các đạo sĩ đã luôn thao thức đi tìm Chúa, kiên trì vượt qua các trở ngại dọc đường. Chẳng hạn: Khi đến Giê-ru-sa-lem thì ngôi sao lạ biến mất, các ngài đã không chán nản quay về, nhưng đã tiếp tục dò hỏi về Hài Nhi Cứu Thế trong đền vua Hê-rô-đê, và đi theo ánh sao tới thành Bê-lem. Khi gặp được Hài nhi Cứu Thế, các ngài đã sấp mình thờ lạy rồi dâng tiến ba lễ vật quý là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thật đúng như lời Chúa dạy: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).

– Phải chiếu sáng đức tin bằng việc thực thi đức cậy và đức mếnÝ thức đức tin là ơn Chúa ban, nên mỗi tín hữu cần năng cầu xin Chúa cho anh chị em lương dân quen biết được sớm nhận biết tin theo Chúa. Mỗi người chúng ta cũng phải tích cực góp phần làm cho Nước Chúa mau trị đến, bằng cách cải tạo môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Nhất là cần chiếu ánh sáng đức tin qua lời nói và cách ứng xử vị tha quên mình phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16), và lời thánh Phao-lô: “Giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).

  1. THẢO LUẬN: Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê như sau: “Giữa một thế hệ gian tà, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.”.. (Pl 2,14-15). Trong những ngày này, mỗi tín hữu chúng ta cần tỏa sáng bằng những việc cụ thể nào?
  2. LỜI CẦU:

– Lạy Chúa GiÊ-su, cuộc đời chúng con nhiều lúc cũng gặp phải bế tắc giống như các đạo sĩ xưa khi ngôi sao dẫn đường biến mất: Trong những giờ phút thử thách ấy, xin cho chúng con biết noi gương các đạo sĩ: Không nản lòng, nhưng luôn kiên trì tìm ý Chúa qua các chủ chăn trong Hội Thánh. Chúng con tin rằng: Chúa sẽ ban ơn soi sáng, giúp chúng con nhận biết con đường phải đi.

– LẠY CHÚA. Khi đến với Chúa con không biết phải dâng lên Chúa món quà gì. Vì món quà con thích thì Chúa lại không ưa ; Còn những món qùa Chúa chờ mong thì con lại chỉ muốn giữ riêng cho mình. Xin cho con biết quảng đại cho đi mà không cần tính toán. Con xin dâng lên Chúa mọi khả năng, thời giờ, của cải và mọi thứ thuộc về con. Con cũng xin dâng lên Chúa tấm lòng sám hối khiêm cung về những lỗi lầm con đã phạm. Xin Chúa vui nhận, thánh hóa và ban ơn cứu độ cho con.

 

LỄ CHÚA HIỂN LINH_B

Lm. Antôn

Câu chuyện của ba nhà đạo sĩ trong bài Tin mừng lễ Chúa hiển linh hôm nay rất phong phú và có nhiều ý nghĩa. Nhưng có 2 bài học đặc biệt, quan trọng và quí giá. Những bài học này được thánh Mát-thêu lập đi lập lại nhiều lần trong Tin mừng của ngài.

Bài học quí giá thứ nhất là Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi hay ơn cứu độ được ban phát cho mọi người. Người Do thái, là dân được Thiên Chúa thương chọn làm dân riêng, tin rằng họ độc quyền chiếm giữ ơn cứu độ. Nhưng Ba đạo sĩ là những người đại diện cho mọi người được Thiên Chúa kêu gọi nhận biết Ngài qua Chúa Giê-su.  Tin mừng của thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy bài học này được chú ý đến khi Chúa Giê-su không ngại hay từ chối chữa lành đứa con của viên đại đội trưởng của dân ngoại.  Chính Chúa còn xác nhận và ngưỡng mộ lòng tin của ông: “Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương Đông và phương Tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt. 8, 8-17)  Trong một đoạn Tin mừng khác, Chúa cũng đã cứu đứa con gái của người đàn bà xứ Ca-na-an ngoại đạo vì đức tin mạnh mẽ và khiêm tốn của bà. (Mt. 15, 21-28).  Nhưng ơn cứu độ được ban cho muôn người được minh chứng rõ ràng trong đoạn Tin mừng nói về thời điểm trước Chúa về trời, Người nói với các môn đệ: “Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy các con.” (Mt. 28, 19)

Cuộc thăm viếng và gặp gỡ Hài Nhi Chúa Giê-su của ba nhà đạo sĩ cho chúng ta biết Thiên Chúa đã mở cánh cửa ơn cứu độ cho muôn người, nhưng bài học quan trọng đặc biệt thứ hai là: không phải tất cả mọi người được cứu rỗi, được vào Nước Thiên Chúa.  Nếu đặt câu hỏi: phải làm sao và sống như thế nào để được cứu rỗi?  Câu trả lời là phải có niềm xác tín vào Chúa, phải có niềm tin.  Thế thì chúng ta có thể hỏi: Đức tin là gì?  Chúng ta chỉ có thể nhận được câu trả lời trừu tượng mà thôi, nhưng nếu chúng ta nhìn vào cuộc hành trình của ba nhà đạo sĩ thì chúng ta biết rõ được muốn có niềm xác tín vào Chúa thì phải có thái độ và hành động nào.

Thái độ thứ nhất là nếu muốn có một niềm xác tín thì phải có lòng khao khát và tìm kiếm.  Thời Chúa Giê-su giáng sinh, mọi người xa gần đều lãnh đạm, thờ ơ, chỉ mải miết với công việc của mình, thì chỉ có các đạo sĩ có lòng khao khát và chờ đợi Đấng Cứu Thế.  Chúng ta thấy thái độ của các đạo sĩ trái ngược hẳn với thái độ của Hê-rô-đê.  Ông mải mê theo đuổi sự giàu sang và quyền lực.  Đấng Cứu Thế sinh ra không xa mấy, nhưng ông chẳng hay biết gì.  Kinh thánh đã tiên bào về Đấng Cứu Thế, nhưng ông thờ ơ, lạnh nhạt với Lời Chúa.  Bài học quí giá là không khao khát thì không bao giờ được đáp ứng, không tìm thì không bao giờ thấy.

Thứ hai là phải lên đường thực hiện của tìm kiếm.  Chúng ta thấy khao khát chưa đủ.  Khao khát mà ngồi nyên để chờ thì không phải là khao khát thật. Muốn đến nhà thờ để cùng thờ phượng Chúa, mà cứ ngồi nhà thì không phải là khao khát.  Các đạo sĩ không ngồi chờ thụ động, không ngồi chờ Chúa đến.  Thấy ánh sao lạ, họ quyết tâm lên đường ngay để thực hiện cuộc tìm kiếm.  Trái lại, chúng ta thấy các giáo trưởng và luật sĩ biết Lời Kinh thánh nói rõ địa điểm Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và địa điểm đó lại gần, nhưng họ lờ đi, đâu lên đường.  Như vậy, đức tin không phải là một tư tưởng, mơ ước, nhận thức suông, mà là hành động, là thực hiện.

Thái độ thứ ba là khi gặp thử thách, khó khăn không bỏ cuộc, không mất đức tin. Chúng ta thấy trong suốt hành trình các đạo sĩ đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn, trở ngại và nguy hiểm.  Nhưng thử thánh lớn nhất đối với họ là khi ngôi sao dẫn đường biến mất.  Dầu vậy, họ đã không nản lòng, cứ kiên nhẫn tiếp tục lên đường, và lòng kiên trì đã đưa họ tới đích.  Như vậy lòng xác tín đòi hỏi sự trung thành và kiên nhẫn.

Thái độ thứ tư của đức tin là nhận ra Chúa qua tấm màn che lấp Người.  Các đạo sĩ cứ nghĩ rằng ngôi sao sẽ dẫn họ tới cung điện vua chúa nguy nga đồ sộ, hay tới khu nhà giàu sang, nhưng lại dẫn họ tới máng cỏ nghèo nàn nơi đồng cỏ vắng vẻ.  Và khi tới bên máng cỏ, các đạo sĩ chỉ thấy một trẻ sơ sinh nghèo khó quấn trong khăn.  Họ tưởng sẽ gặp được một vị hoàng tử nằm trên giường vàng nệm bạc, nhưng chỉ thấy một hài nhi nằm trong máng cỏ trong một hang bò lừa cô đơn giá rét mùa đông.  Họ tưởng sẽ gặp một ông hoàng bà chúa bên cạnh hoàng tử mới sinh ra, như chỉ thấy hai ông bà Maria và Giuse nhà quê trong hoàn cảnh đơn sơ, bơ vơ và nghèo khó.  Nhưng họ đã được Thánh Thần soi sáng nên đã nhận ra đó chính là Con Thiên Chúa, và đã quì xuống thờ lạy, rồi sau đó quảng đại dâng cho Người những lễ vật quí báu cho các bậc vua chúa. Đây chính là thực chất của đức tin.  Tin không phải là nhìn thấy bằng con mắt thể xác, như bằng đôi mắt tâm hồn.

Và thái độ cuối cùng phải có là cuộc sống mới.  Sau khi ở Be-lem về các đạo sĩ đã sống một cuộc đời mới.  Cuộc đời họ đã chuyển sang một hướng khác.  Cuộc gặp gỡ Hài nhi Giê-su ở Be-lem đã đánh dấu một cuộc chuyển hướng vừa bất ngờ vừa cương quyết trong cuộc đời của họ. Nếu không có cuộc đổi đời theo sau cuộc gặp gỡ với Chúa, thì tin chỉ là một thái độ hờ hững bên ngoài, chứ không phải là một niềm xác tín đưa tới phó thách và dấn thân. Những thái độ trên không thể thiếu nơi người có và sống đức tin, nơi người Ki-tô hữu.

Câu truyện Ba đạo sĩ đi tìm và gặp được Hài Nhi Giê-su sau khi đã vượt qua một cuộc hành trình xa xôi với rất nhiều khó khăn, cực nhọc, nguy hiểm và trở ngại.  Họ đã phải đương đầu với cả vị vua độc ác, gian dối và những đại giáo trưởng và luật sĩ Do thái, những người biết câu trả lời và vị trí, nhưng không có ý muốn đi tìm kiếm Chúa. Câu truyện này cho chúng ta những bài học quan trọng và quí giá về đức tin trong đời sống Ki-tô hữu.  Thật vậy, ơn cứu độ và Nước Thiên Chúa được ban cho mọi người, nhưng không phải tất cả mọi người đều được cứu rỗi, chỉ những ai khao khát và thành tâm tìm kiếm thì mới gặp mà thôi. Xin Chúa ban cho mọi người chúng ta một niềm xác tín vào Người.

 

 

ĐẾN BAO GIỜ CHÚA MỚI LẠI HIỂN LINH

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Người Công Giáo Việt Nam thường gọi ngày lễ hôm nay là lễ “BA VUA”; vì Phụng vụ lễ nầy chọn đọc trích đoạn Tin Mừng Matthêô về câu chuyện “ba đạo sĩ phương đông theo ánh sao lạ tìm đến chiêm bái Hài Nhi ở Bêlem”. (Mt 2,1-12).

Ngày nay Phụng vụ dùng từ Hiển Linh theo đúng nghĩa của từ Epyphaneia của Hy Lạp (Sự tỏ hiện). Chính vì thế, trong truyền thống xa xưa của Hội Thánh, hôm nay Phụng vụ kính nhớ 3 mầu nhiệm về “sự tỏ hiện hay hiển linh” của Ngôi Hai Thiên Chúa : Hiển Linh qua “vì sao lạ dẫn đường Ba Vua Phương đông đến thờ lạy”, Hiển linh qua biến cố chịu phép rửa bên dòng sông Gio-đan và hiển linh qua phép lạ hóanước thành rượu tại tiệc cưới Cana.

Qua những “dấu chỉ đầy ấn tượng” của Lời Chúa đó, ý nghĩa đầu tiên của sứ điệp Hiển Linh chính là “ảnh hưởng bao trùm của công cuộc cứu độ”; hay nói cách khác, việc Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa đi vào trần gian, Thiên Chúa “đến cắm lều ở giữa nhân loại” không phải là chuyên riêng tư của một gia đình bé nhỏ : Giu-se, Ma-ri-a và Hài Nhi Giê-su ; nhưng là công cuộc cứu độ có liên quan đến toàn thể nhân loại, ảnh hưởng trên toàn bộ lịch sử loài người và cả vũ trụ, trải dài trên mọi chiều kích không gian và thời gian.

Viễn tượng nầy, Thiên Chúa đã mặc khải qua cái nhìn và cảm nhận của sứ ngôn I-sa-i-a mà chúng ta vừa nghe công bố trong Bài đọc 1 : vị sứ ngôn đã thoáng thấy vẽ huy hoàng tráng lệ và tràn ngập ánh sáng của một “Giêrusalem” đầy mộng ước mà công trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ chính thức được khai mào trong đêm “rực sáng ở Bê-Lem” và sẽ viên thành với một “Giêrusalem mới” trong vương quốc Thiên Chúa.:

“Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra, hỡi Giêrusalem ! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân ; nhưng trên mình ngươi, Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi …”.

Đó phải chăng là một “Tin Mừng vĩ đại cho toàn dân” (Lc 2,10) mà các thiên sứ đã báo cho các mục đồng thành Bê-lem trong đêm Ngôi Hai giáng thế, cũng là Tin Mừng được Đức Kitô ra lệnh cho cho các môn sinh “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16,15), và cũng là Tin Mừng mà theo nhận định của Thánh Phaolô trong thư Êphêsô (Bđ 2) nhờ đó “các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần với lới hứa của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô” (Ep 3,6), một “dân ngoại” được minh họa đầy ấn tượng qua ba nhà đạo sĩ phương đông với những lễ vật cũng mang đầy nội dung Cứu độ : vàng (vương đế), nhũ hương (tư tế), mộc dược (khổ nạn hay mầu nhiệm Vượt Qua).

Nếu đem sứ điệp đầy hy vọng của mầu nhiệm Hiển Linh nầy soi chiếu vào thế giới hôm nay chúng ta sẽ thấy gì ? Thấy còn hơn hai phần ba nhân loại chưa nhận biết Chúa Kitô (khoảng trên 2 tỷ người thuộc Kitô giáo trên tổng sổ gần 7 tỷ người), còn chiến tranh loạn lạc khắp nơi, còn mê tín dị đoan, bóng tối lầm lạc bao phủ nhiều dân tộc, nhiều gia đình…

Như vậy “cuộc Hiển Linh” của Thiên Chúa vẫn còn đang ở phía trước, vẫn là một “gọi mời” để nhân loại cất bước lên đường tìm kiếm “ánh sao lạ Bê Lem” như ba nhà đạo sĩ thuở nào; và nhất là để những ai đã một lần “tìm thấy ánh sao Bêlem”, phải “tìm đường khác trở về xứ sở mình”, quê hương mình, loan Tin Mừng Cứu Độ và giới thiệu Chúa Giêsu cho anh chị em mình.

Và như thế, Giáng Sinh, Hiển Linh không là câu chuyện cổ tích để mỗi năm chúng ta đọc lại một lần, diễn lại như một “đoạn phim của quá khứ”, mà là một khởi đầu mới, như cách cảm nhận của một bài thơ:

Khi ngôi sao trên bầu trời biến mất

Khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà

Khi các mục đồng và đoàn súc vật đã trở về

Thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu:

Để tìm lại những gì đã mất

Để hàn gắn những gì đã gãy đổ

Để người đói được ăn no

Để tù nhân được giải phóng

Để các nước xây dựng lại

Để đem an bình cho mọi người

Và để hòa nhạc bằng trái tim.

Và để trả lời cho những ai còn đang trăn trở “đến bao giờ Chúa mới lại hiển linh?”, thì chút nữa đây thôi, Chúa Giêsu sẽ “hiển linh” cho mỗi người chúng ta cách trầm lắng, khiêm lạ, giản đơn qua “Tấm Bánh, Ly Rượu” là chính Máu Thịt của Ngài được trao ban qua bàn Tiệc Thánh Thể.

Mầu nhiệm vĩ đại nầy được “hiển linh” cách âm thầm, khiêm tốn quá thể, mà chắc chắn, những con người đang mang trong cõi lòng những tham vọng hận thù trần tục như bạo vương Hêrôđê, mang não trạng kiêu căng và giả hình như các nhà luật sĩ và biệt phái ở Giêrusalem 2000 năm trước…sẽ không bao giờ nhận ra, hiểu thấu và gặp gỡ !

Vâng, chỉ có những ai “khao khát mới được toại lòng” và chỉ những ai “trong sạch trong lòng mới được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,6.8), chẳng khác nào, như ba nhà đạo sĩ khi xưa, chỉ khi ra khỏi cái “đô thành Giêrusalem trần tục của Hêrôđê”, mới tìm lại được “ngôi sao ở phương Đông, để rồi, đi trước họ dẫn tới chỗ Hài Nhi” !

 

LÊN ĐƯỜNG TRUYỀN GIÁO NHƯ CÁC ĐẠO SĨ

Huệ Minh

Hồi còn nhỏ thì, cứ đến lễ Giáng Sinh thì cũng vui rồi! Nhưng mà tụi con thích ngày đó lắm!

Bởi vì cái ngày mà lễ hiển linh đó, thì cha xứ mới trưng ra ba cái tượng gọi là 3 đạo sĩ còn gọi là Ba Vua. Và cái lễ đó: Lễ Hiển Linh còn gọi là lễ Ba Vua.

Rồi có một cái hang đá ở bên chỗ nhà thờ có tượng Thánh Giêronimô ở bên Jerusalem. Khi mà mọi người tham quan tới thì thấy có một cái hang đá rất đẹp, nhìn rất sống động. Con chiên thì người ta giống như là chích formon vào, và còn nguyên đai nguyên kiện nó luôn và rất là thích. Và Đức Mẹ, thánh Giuse cũng thích lắm, bởi vì họ làm cho sống động

Nhưng có lẽ sống động hơn là hình ảnh của Ba Vua. Nhiều khi chúng ta quen quá rồi, chúng ta nhớ lại cái câu chuyện mà Ba Vua như là một cái câu chuyện cổ tích, và chúng ta đi tìm kiếm.

Cũng giống như con hồi nhỏ, là mình đi xem Ba Vua hơn là mình muốn tìm hiểu được cái bài học ở bên dưới, mà Thánh Mátthêu muốn gói ghém vào cái hình ảnh của Ba vua, đôi khi chỉ về cái bề ngoài mình nhìn cái vóc dáng bề ngoài của 3 vua, rồi đôi khi mình chú tâm quá đến vàng, nhũ hương, Mộc dược. Người ta đi tìm ý nghĩa thần học hơi sâu, nhưng mà hôm nay con xin gợi đến cái hình ảnh và hành trình đức tin của con người đi tìm Thiên Chúa và ý nghĩa của đời sống qua cái hình ảnh của Ba Vua.

Thì chúng ta thấy người ta hay tin vào ánh sao lắm! Nhớ là trong cái truyện Tam Quốc Chí, ai mà đọc thì nhớ. Khi mà Khổng Minh Gia Cát Lượng chết, thì nhà vua thấy có một ngôi sao từ trên trời rơi xuống và cho rằng là Gia Cát Lượng chết là cái ngôi sao rớt thôi.

Và vì tin vào ngôi sao các nhà chiêm tinh hay nhìn lên trời và có ba nhà đạo sĩ hay nhìn lên trời và họ đọc được một cái ý nghĩa.

Đó là thấy một cái ngôi sao lạ và họ cứ đi theo cái ngôi sao lạ đó dẫn đường.

Thôi thì họ đi tìm và cứ đi theo cái cách dẫn đường của ngôi sao lạ đó.

Nhưng mà rồi đi đến Giêrusalem thì bỗng nhiên cái ngôi sao lạ đó biến mất. Và rồi mà sao tìm được ý nghĩa nữa? Thì chỉ còn cách duy nhất là đi vào triều đình nhà vua hỏi, thì may ra biết rằng trên đất nước mình có chuyện gì lạ.

Khi mà nhà vua nghe các nhà đạo sĩ hỏi về cái ý nghĩa của cái ngôi sao mà ba nhà đạo sĩ thấy biến mất đó, thì nhà vua nhờ đến những người thông thái, những người giỏi. Và họ lấy sách thánh ra mà họ đọc. Và họ dựa vào sách thánh mà họ đọc: có một Đấng Cứu Thế sinh ra Bêlem.

Và như thế 3 đạo sĩ với cái lòng thao thức của mình tiếp tục cái hành trình đi lên Bêlem, để mà đi tìm cái sự lạ: Như mà cái ngôi sao dẫn đường.

Và rồi có cái hay rằng là, khi mà bước ra khỏi cái triều đình của vua Hêrôđê thì thấy được tiếp tục cái ngôi sao. Và ngôi sao đó tiếp tục dẫn 3 nhà đạo sĩ đi đến Bêlem . Và khi đi đến Bêlem thì 3 đạo sĩ gặp được Chúa Giêsu và các ông đã bái thờ Người và các ông đã đưa ra những tặng phẩm quý hiếm của mình để dâng cho Chúa Giêsu.

Ngôi sao không phải là đỉnh cao, cùng đích mà họ tìm kiếm, nhưng Hài Đồng Giêsu là cùng đích mà ba nhà đạo sĩ đó tìm kiếm.

Hành trình đức tin của chúng ta nếu chúng ta nhìn thấy chắc có lẽ cũng giống như hành trình của ba nhà đạo sĩ.

Khi mà chúng ta có trí khôn, chúng ta nhìn lên bầu trời vũ trụ mênh mông bao la và kỳ diệu, chúng ta nhìn thấy những kỳ công của Thiên Chúa thì chúng ta khám phá ra có một bàn tay của Đấng Tạo hóa vô hình đã dựng nên vũ trụ này. Và người ta vẫn nói rằng là:

Đức tin hỗ trợ cho khoa học và khoa học hỗ trợ cho đức tin, hai cái không có chống nhau.

Nhưng mà đức tin thì hỗ trợ cho khoa học, để mà qua cái khoa học để chứng minh được bàn tay của Thiên Chúa rất tuyệt vời, để sáng tạo nên vũ trụ này.

Và người Việt Nam của chúng ta tự hào là có ông Trịnh Xuân Thuận là 1 nhà thiên văn học. Ông đã dịch sách rất là nhiều, và chúng ta đọc được cuốn sách của ông về vũ trụ này.

Thì có một cái điều rất là hay lắm! Ông là nhà thiên văn học ông suy nghĩ về vũ trụ, ông suy nghĩ về vũ trụ, ông đi tìm kiếm vũ trụ, ông nghiên cứu về vũ trụ. Nhưng mà bên dưới cái sự tìm kiếm về vũ trụ về cái tác động, cái sự lạ về vũ trụ thì Trịnh Xuân Thuận lại suy tư về nguồn gốc của vũ trụ.

Và ý nghĩa của cuộc sống làm người, và ông trở về với câu hỏi như một triết gia. Tại sao lại có một cái gì đó thay vì hư vô? Tại sao có một cái vũ trụ đẹp tuyệt vời như thế này?

Và không phải một mình Trịnh Xuân Thuận mà rất nhiều người thấy rằng xuyên qua cái vũ trụ đẹp này thì nhiều người tin và xác tín rằng có một bàn tay của Thiên Chúa. Và rồi trong cái vũ trụ đó, chúng ta lại tìm coi THIÊN Chúa muốn nói gì trong vũ trụ.

Và để đi tìm cái đó thì lại đi dựa vào Thánh Kinh và chính Thánh Kinh đã nói cho chúng ta biết về ý nghĩa sâu xa mà Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này và chỉ có nơi CHÚA Giêsu chúng ta mới có trọn vẹn về chân lý, về con người.

Bởi vì con người được sinh ra từ Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài và Thánh Augustinô đã cầu nguyện rằng: «Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Xin cho con biết con.

Thao thức của Augustinô cũng là thao thức của mỗi người chúng ta. Chúng ta xin cho chúng ta được biết Chúa và chúng ta biết chúng ta.

Và qua cái hành trình đi tìm ngôi sao lạ, cũng như tìm Chúa Giêsu đây, chúng ta bắt gặp hai khuôn mặt tương phản.

Ba nhà đạo sĩ thì từ nơi xa xôi cất bước lên đường vất vả, cực khổ để mà đi tìm. Và cuối cùng đã gặp Chúa, và dâng tất cả những gì quý báu lên Thiên Chúa.

Còn ngược lại Herôđê, ông không cất công đi tìm, ông chỉ tìm bằng cái quyền lực của ông. Và dùng cái quyền lực của ông, để ăn chắc với hài nhi dưới 2 tuổi trở xuống. Ông giết cho sạch! Bởi vì ông sợ hài nhi, một trong những hài nhi đó là vua dân Do Thái, để loại trừ ngai vàng của ông.

Và chúng ta thấy, hai thái độ tương phản một bên thì thao thức, một bên thì đi tìm.

Dẫu rằng, gặp tất cả cái khó khăn, vất vả của cuộc đời: cái ăn, cái ngủ, cái mặc và thậm chí cả tính mạng.

Còn một bên thì cái ngai vua của mình và sợ người ta đánh mất cái Ngai vua của mình và giết.

Trong khi đó thì chúng ta thấy, người ngoại giáo đi tìm để tôn thờ Chúa. Và những người có truyền thống tôn giáo cũng đi tìm, nhưng tìm để mà giết.

Và liệu rằng ngày hôm nay sau 2017 năm, Chúa Giêsu sinh ra làm người đó! Liệu rằng còn có cái sự tương phản đó trong cuộc đời của chúng ta hay không?

Có đó chứ! Có những anh chị em ngoại giáo, vì lòng thành đi tìm CHÚA rất tuyệt vời.

Ở trong ca Đoàn con quen thì có một cái cô kia, cô lập gia đình có hai đứa con. Thì hôn nhân của cô không trọn vẹn và rồi cô càng ngày càng khám phá ra Chúa. Và mỗi Chúa nhật đi nhà thờ, cô nghe cha giảng, dự thánh lễ cô thấy tâm mình bình an lắm!

Rồi Có một lần ngồi tòa giải tội có một cô kia vào tòa Xưng Tội thì ấp a ấp úng thì ra là: cô không có đạo. Cô nghe người ta nói là đi vào xưng tội, thì cô tha thiết đi xưng tội và đi tìm học giáo lý. Và sau đó có thì con hướng dẫn cho cô, để cô đi học giáo lý.

Những người ngoại giáo thì một hai đi tìm Chúa. Bởi vì họ thấy nơi Chúa có một cái chân lý, còn những người có đạo gốc, không chừng là gốc cây đó! thì không còn thao thức đi tìm Chúa nữa.

Thật sự ra mà nói thì, không phải là đến độ như Hêrôđê là giết Chúa. Nhưng mà nhiều người có đạo và đạo gốc đã tìm đủ mọi cách để gạt Chúa ra khỏi bên lề của đời mình:

– Chúa ơi, Chúa đi chỗ khác đi! Để con làm ăn. Chúa đến với đời con, Chúa phá đám con quá!

– Con đang tự do mà! Con đang tự do buôn gian bán lận, ăn nói bất chấp, vu khống, nói hành nói xấu.

– Con làm đủ mọi chuyện hết! mà bây giờ mà nếu Chúa vào trong đời con, thì con không làm ăn gì được hết! Thôi thì Chúa đi chỗ khác chơi dùm con nhờ!

Và ngày hôm nay nhìn lại cuộc đời của chúng ta hành trình 3 đạo sĩ có phải là hành trình của mỗi người chúng ta thao thức, tha thiết để mà lên đường tìm Chúa hay không?

Ngày hôm nay mừng lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta soi mình và cuộc đời của ba đạo sĩ, để ta lại xin Chúa ban ơn cho chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta biết tìm Chúa trong mọi hoàn hoàn cảnh cuộc đời. Để rồi có khi nào đó chẳng may, chúng ta có một chút cái men Hêrôđê độc ác trong người của chúng ta, thì xin Chúa cho chúng ta biết loại trừ cái men Hêrôđê đó!

Cái men Hêrôđê độc ác : loại trừ Thiên Chúa, loại trừ anh chị em đó, ra khỏi cuộc đời của chúng ta. Để rồi lòng thành chúng ta, chúng ta chỉ biết đi tìm Chúa và tôn thờ, chỉ vì: Chúa là Đấng duy nhất cứu độ trần gian và là Đấng duy nhất cứu độ cuộc đời của chúng ta, chỉ có Chúa thôi.

Xin cho chúng ta ngày mỗi ngày, nói như Augustinô trong cuộc đời chúng ta: «Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Và xin cho con biết con. Để con được gặp gỡ Chúa, và con tìm được chính con Amen.

 

 

SUY NIỆM LỄ CHÚA HIỂN LINH_B

Lm. Anthony Trung Thành

Theo dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ mình ra cho con người. Ngài tỏ mình ra nhằm mục đích cho con người biết ý định của Ngài, là muốn cho con người được tham dự vào sự sống đời đời của Ngài.

Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng lời nói: Ngài nói với ông Mô-sê, nói với các tiên tri. Sau đó, Mô-sê và các tiên tri nói lại với dân chúng. Chẳng hạn, Ngài nói với Mô-sê về ý định của Ngài là muốn đưa dân Is-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập để về Đất Hứa. Mô-sê đi nói điều đó cho dân chúng biết (x. Xh 6,1-13).

Nhiều lần Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho con người bằng hành động: Chẳng hạn, Ngài cho nước Biển đỏ dựng đứng như bức tường thành để dân Is-ra-en đi qua (x. Xh 14, 15-31) hay cho mưa diêm sinh và lửa từ trời thiêu đốt thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra vì tội lỗi của họ (x. St 19,1-29)…

Ngài còn tỏ mình ta theo từng giai đoạn khác nhau của lịch sử cứu độ: Vào năm 1850 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Áp-ra-ham và thử lòng trung thành của ông qua việc đòi ông hiến tế đứa con duy nhất là I-xa-ác. Ông Áp-ra-ham đã vâng nghe và làm đúng như lời Thiên Chúa, nhưng được Thiên thần can ngăn. Thấy được lòng trung thành của ông, nên Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông một dân tộc, một dòng dõi đông đúc như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển (x. St 22,1-19); vào năm 1250 (TCN), Ngài tỏ mình ra cho ông Mô-sê qua bụi cây bốc cháy và cho ông biết Ngài là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, tổ phụ người Do Thái và ý định của Ngài là đưa dân Ít-ra-en ra khỏi ách thống trị nô lệ Ai-cập (x. Xh 3, 1-22); vào năm 1000 (TCN), qua Na-than, Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít rằng Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi của ông (x. 2Sm 7,11-16); từ năm 721 (TCN), Thiên Chúa tiếp tục nói với dân chúng qua các tiên tri như I-sai-a, A-mốt, Hô-sê, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en…; Cuối cùng, Thiên Chúa tỏ mình ra cách trọn vẹn nơi Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, ngày lễ Giáng sinh là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân Do Thái. Chính các Thiên thần báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.” (Lc 2,11). Còn ngày lễ Hiển linh mà chúng ta mừng kính hôm nay gọi là ngày lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại qua ngôi sao dẫn đường. Rồi, ông Si-mê-on nhận ra trẻ Hài nhi là Đấng Cứu Thế nhờ Thánh Thần linh hứng (x. 2,22-28). Bà An-na cũng được ơn nói tiên tri về Hài Nhi cho mọi người (x. Lc 2,36-38).

Trong ba năm đời sống công khai, Đức Giê-su cũng tỏ mình ra cho các môn đệ và dân chúng bằng lời nói và các phép lạ Ngài làm. Ngài cho biết: Ngài là ai? Thiên Chúa là Đấng nào? Thiên Chúa có mấy ngôi? Nhiệm vụ của từng Ngôi như thế nào? Ngài còn mạc khải cho biết nhiều điều liên quan đến Thiên Chúa, đến thế giới thiêng liêng, đến số phận đời đời của con người và vũ trụ này. Sau ba năm đời sống công khai, Ngài đã chịu chết, sống lại và lên trời. Đến ngày tận cùng của thế giới, Ngài lại ngự đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Như vậy, nếu không có những lần Thiên Chúa tỏ mình ra, nếu không có Đức Giêsu mặc khải thì con người sẽ không biết Thiên Chúa là ai, ý định của Ngài như thế nào. Cũng vậy, các mục đồng sẽ không biết Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế nếu không được các Thiên thần loan báo. Các đạo sỹ cũng không biết Đức Giê-su nếu không có ngôi sao dẫn đường chỉ lối. Các tông đồ sẽ không biết về Thiên Chúa và các phẩm tính của Ngài nếu Đức Giê-su không mạc khải cho họ. Mỗi người kitô hữu chúng ta sẽ không biết Đức Giê-su Ki-tô nếu Giáo hội, cha mẹ, thầy cô giáo lý viên…không dạy dỗ chúng ta. Những người ngoại giáo sẽ không biết về Đức Giê-su Ki-tô nếu người kitô hữu không nói cho họ biết.

Vì thế, ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn muốn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại qua trung gian các kitô hữu. Ngài tỏ mình ra qua lời nói và hành động của chúng ta. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng lời nói như Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã làm. Chúng ta có thể giới thiệu về Chúa bằng việc làm bác ái yêu thương như Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta đã làm. Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ I-sai-a mời gọi chúng ta “Hãy tỏa sáng ra” (Is 60,1). Chúng ta hãy “tỏa sáng” giáo huấn của Đức Giê-su cho hết thảy mọi người: hãy tỏa sáng tình thương tới những nơi có oán ghét hận thù; hãy tỏa sáng sự thứ tha tới những nơi có khinh khi nhục mạ; hãy tỏa sáng sự hòa giải tới những nơi đang có mâu thuẫn bất đồng; hãy tỏa sáng chân lý tới những nơi có giả dối sai lầm; hãy tỏa sáng đức tin tới những nơi đang có hoàn nghi ngờ vực; hãy tỏa sáng niềm hy vọng tới những nơi đang có nản chí sờn lòng; hãy đem ánh sáng vào những nơi đang có bóng tối mây mù; hãy tỏa sáng niềm an vui vào những nơi đang có u sầu buồn bã.

Làm được như vậy, mọi người sẽ nhận biết Thiên Chúa là Đấng nào hay ít nữa là họ biết chúng ta là con cái của Ngài. Câu chuyện sau đây làm chứng cho chúng ta thấy điều đó: Một buổi tối lạnh lẽo trong kỳ nghỉ lễ, có một cậu bé độ sáu bảy tuổi đứng bên ngoài một tủ kính bầy hàng của một cửa hiệu. Cậu bé không có giầy, quần áo thì rách rưới bẩn thỉu.

Một phụ nữ đi ngang qua và chợt nhìn thấy cậu bé. Bà đọc thấy được một niềm mong ước trong đôi mắt xanh xao của em. Bà cầm tay em dắt vào cửa hiệu, rồi mua cho em một đôi giầy mới, một bộ đồ mới ấm áp.

Sau đó, cả hai đi ra khỏi cửa hiệu và người phụ nữ nói với cậu bé: “Bây giờ về nhà, chúc cháu hưởng một kỳ lễ vui vẻ.” Cậu bé ngước nhìn bà và hỏi: “Bà có phải là Thượng Đế không ?” Người phụ nữ mỉm cười và trả lời:“Không phải đâu cháu, ta chỉ là một trong những người con của Ngài mà thôi.” Bấy giờ cậu bé mới reo lên:“Cháu biết là thế nào bà cũng phải có họ với Thượng Đế mà.” (Bài viết có sử dụng dữ liệu trên Internet).

Ước mong rằng lời nói và việc làm của chúng ta giúp người khác nhận ra Thiên Chúa. Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, vì yêu thương nhân loại chúng con nên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng con nhận biết Chúa. Xin cho chúng con luôn tin yêu Chúa. Xin cho chúng con biết dùng lời nói và việc làm để giới thiệu về Chúa cho anh chị em mình. Amen.

 

 

ÁNH SÁNG TRẦN GIAN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay, chúng ta long trọng cử hành lễ Hiển Linh. Từ cổ xưa, lễ này được gọi là “lễ Ánh Sáng” hay “Lễ Ba Vua;” nay gọi là lễ Hiển Linh trong tiếng Hy Lạp là Epifania, có nghĩa là sự tỏ mình, sự bày tỏ vinh quang. Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại nhờ Con Chúa làm người. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là Ánh Sáng cho muôn dân.
Chúng ta bám sát trình thuật của thánh Mátthêu (2,1-12) về Ba Đạo Sỹ đến Bêlem triều yết Hài Nhi Giêsu, qua đó, chúng ta tìm thấy chỉ dẫn thực hành cho đời sống chúng ta.
Trong trình thuật này, yếu tố lịch sử được hòa trộn với những yếu tố thần học và biểu tượng. Hay nói cách khác, tác giả Tin Mừng không chỉ muốn trình bày những sự kiện lịch sử đã xảy ra, nhưng còn muốn gửi gắm những sứ điệp, những giáo huấn qua những nhân vật liên quan để người đọc noi theo, hoặc để xa tránh. Theo đó, có ba phản ứng khác nhau nổi lên trước thông tin về Hài Nhi Giêsu sinh ra: đó là phản ứng của các Đạo Sỹ, phản ứng của Hêrôđê và phản ứng của các thượng tế và luật sỹ. Chúng ta hãy bắt đầu từ những phản ứng tiêu cực, là những phản ứng mà chúng ta cần xa tránh.
1- Thái độ của Hêrôđê
Trước hết, đó là thái độ của Hêrôđê. Khi hay tin về việc con vua Đavít vừa mới sinh ra, ông ta “liền rất bối rối.” Bởi vì, ông là bạo Chúa, đầy thủ đoạn, độc ác và độc tài, ông không muốn ai có thể chiếm đoạt vương quyền của mình. Nên ông đã triệu tập công nghị với các thượng tế và luật sỹ không phải để biết chân lý nhưng để nắm tình hình. Hêrôđê cũng bí mật vời các nhà chiêm tính đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện và phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2,7-9). Thực ra ông muốn biết không phải để đến thờ lạy Đấng Cứu Thế, nhưng để bày mưu tính kế giết hại Người. Giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của mình, Hêrôđê đã đương nhiên chọn ý mình. Nên ông đã thẳng tay làm những gì ông muốn và dẹp bỏ mọi nguy cơ đe dọa đến vương quyền của mình. Vì thế, sau khi không thấy các Đạo Sỹ trở lại trình báo, ông nổi cơn thịnh nộ và sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi các nhà chiêm tinh (x. Mt 2,16).
Khi làm như thế có lẽ Hêrôđê nghĩ rằng ông đang chu toàn bổn phận của mình đối với thiện ích chung là bảo vệ quốc gia trong trật tự và bình an.
Hêrôđê là đại diện cho những kẻ độc tài, độc ác trên trần gian, những kẻ chỉ biết lo bảo vệ chính mình và bằng mọi giá để cũng cố quyền lực, hay lợi ích nhóm, bất chấp đạo đức, nhân phẩm và sự sống của người khác. Từ cái nhìn này, thế giới hôm nay và xã hội chúng ta đang sống cũng đầy dẫy những tên Hêrôđê như thế. Họ nhân danh thiện ích chung, nhân danh tổ quốc, và nhiều khi, còn nhân danh Thiên Chúa, để lên án và giết chết những người vô tội. Chúng ta hãy nghĩ đến biết bao thai nhi bị giết khi chưa được chào đời; những người bị bắt và phải ở tù vì đã dám lên tiếng chống lại bất công xã hội và đấu tranh cho sự thật và công lý. Chúng ta hãy nghĩ đến những kitô hữu, những linh mục, những nữ tu trên thế giới đang bị bách hại và giết chết vì dám đến truyền giáo ở những nước Hồi Giáo. Họ là những nạn nhân của Hêrôđê thời nay. Thái độ của Hêrôđê là thái độ chúng ta cần tránh.
2- Thái độ của các thượng tế và luật sỹ
Giờ đây chúng ta chuyển sang thái độ của các thượng tế và luật sỹ. Họ là những người thông thạo Kinh Thánh, nắm vững lề luật và hiểu biết các lời ngôn sứ về Đấng Cứu Thế mà Ítraen từ lâu trông đợi. Khi được Hêrôđê và các Đạo Sỹ hỏi về Đấng Messia sinh ra ở đâu, họ nhanh chóng đưa ra câu trả lời rất đúng. Họ biết rõ Đấng Messia đã sinh ra ở đâu; họ cũng có thể nói với người khác; nhưng họ không thay đổi. Họ không lên đường. Họ hành động như những bảng chỉ đường: chỉ đường để đi nhưng lại nằm bất động bên đường. Họ không chạy tới Bêlêm, để thờ lại Đấng Messia. Họ chỉ thích bám víu vào sự ổn định và an toàn trong đền thờ, tại Giêrusalem, bởi vì ở đó họ được dân chúng kính trọng, được hưởng bổng lộc từ bàn thờ… Nhưng thật nghịch lý, họ đang xa cách Thiên Chúa, không được ơn cứu độ.
Nên thái độ của của những thượng tế và luật sỹ khiến chúng ta một cách nghiêm túc xét mình lại. Bởi lẽ, rất nhiều lần, chúng ta biết rõ những điều Chúa muốn chúng ta làm, những điều cần thiết để theo Chúa và nếu cần, chúng ta có thể nói rất hay, giải thích rất rõ cho người khác, nhưng chúng ta lại thiếu sự can đảm và tính triệt để sống và thực hành một cách nghiệm túc.
Cũng như các thượng tế và luật sỹ, chúng ta thích bám víu vào cơ cấu ổn định và an toàn của truyền thống, văn hóa và thói quen, nhưng ngại thay đổi, không muốn ra đi và ra ngoài để gặp gỡ người khác, đặc biệt là chúng ta thường ngại lên đường để tìm kiếm Chúa và truyền giáo cho nhưng người xung quanh.
3- Thái độ của các Đạo Sỹ
Cuối cùng chúng ta hãy đến với những nhân vật chính của thánh lễ, đó là Ba Đạo Sỹ. Họ là những những nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông, chính xác là ở Ba Tư. Họ vốn là lớp người tri thức của thời đại, thường thuộc hành tư tế và làm cố vấn cho các vua. Họ đã dùng sự hiểu biết và nhạy bén của mình để tìm hiểu về những dấu lạ loan báo Đấng Cứu Thế đã xuất hiện. Họ lên đường theo ánh sao dẫn đường để tìm kiếm, chiêm bái Người. Hành trình của họ rất dài với những khó khăn và trắc trở, họ đi bằng lạc đà chứ không phải bằng máy bay như ngày hôm nay. Họ không có GPS để dẫn đường, chỉ lần theo ánh sao và nhiều lúc lạc đường, phải hỏi người này người kia… Nhưng bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm, cuối cùng họ đã đến tại nơi Hài Nhi ở. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến Người.
Các Giáo Phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài Nhi theo nghĩa tượng trưng: Vàng chỉ Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ Thiên Chúa; mộc dược chỉ nhân tính hay cái chết của Người. Ngày nay, có một giải thích khác, Vàng tượng trưng cho Đức Tin; nhũ hương tượng trưng cho Đức Cậy, mộc dược tượng trưng cho Đức Mến của Ba Đạo Sỹ và của mỗi người dâng Chúa.
Như thế, các Đạo Sỹ dạy cho chúng ta những bài học không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm, không phải bằng lý thuyết nhưng gương sống. Họ không nấn ná, chần chừ. Họ đã lên đường. Họ bỏ lại đằng sau sự an toàn của môi trường thân quen, nơi họ được nhiều người biết đến và được kính trọng. Khi “họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” Đây là lời minh chứng về sự thay đổi đời sống sau khi họ đã gặp Chúa Giêsu, khi họ thay đổi con đường cũ họ đi.
Cuộc gặp gỡ nào với Chúa Kitô đều mang lại sự thay đổi, một sự thay đổi thói quen và lối sống. Bởi thế, trong những ngày Giáng Sinh này, chúng ta được mời gọi hãy đến gặp gỡ Chúa qua bí tích Giải Tội và Thánh Thể, để chúng ta cũng được thay đổi và biến đổi đời sống của mình nên tốt hơn, thánh thiện hơn. Amen!

 

 

NGÔI SAO TRONG CUỘC ĐỜI, NGÔI SAO GIÊSU

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, trong cuộc đời mỗi người đều có một ngôi sao dẫn đường, đó là sự thánh thiện, sự nhận thức đúng sai, mà người ta thường nói : làm lành lánh dữ.

Sự nhận thức tự nhiên trong tâm hồn, môi trường gia đình, xã hội, học thức, bạn bè, như người ta thường nói : chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở. Điều đó có nghĩa là :  “ Gần mực thì đen, gần đèn  thì sáng”. Trong cuộc đời mỗi người thường được liên tưởng đến một vì sao, nếu ai sinh ra may mắn hạnh phúc, thì người ta bảo, người ấy là” ngôi sao hạnh phúc”, còn nếu ai bất hạnh , kém may mắn, thì người ta bảo: “ sinh nhằm sao xấu”, hay là “ ngôi sao bất hạnh”, “ ngôi sao cô đơn “ v.v…

Vâng, từ xa xưa, người ta vẫn tìm kiếm chân lý trên các vì sao, “ ăn cơm dưới đất, nói chuyện trên trời”, quả thật dành cho những nhà tri thức. Khoa học thường phản lại tôn giáo, nhưng thật sự ra khoa học chính là quyền năng siêu nhiên của Thiên Chúa, nếu không có Thiên Chúa thì không có khoa học, bởi vì , khoa học chính là những hiện tượng tự nhiên trong trái đất, mà còn người phải tìm kiếm, tìm tòi, phải chứng minh. Nhưng, khoa học còn muôn điều kỳ diệu chưa thể chứng minh được. Khoa học không thể có sự tha thứ, khoa học không có tình yêu, nói chung khoa học là Robot. Khoa chiêm tinh cũng là một môn khoa học, nhưng , chiêm tinh là một môn khoa học tôn giáo, bởi vì, khoa chiêm tinh không thể chứng minh thực nghiệm, mà hoàn toàn phải dực vào siêu nhiên, những hiện tượng siêu nhiên biểu lộ tự nhiên, để những ai nghiên cứu thì biết được, nhưng hoàn toàn không nắm bắt được , vì nó thuộc về siêu nhiên tức ở trên cao, vì “Chiêm “ có nghĩa là nhìn nhắm , quan sát, nghiên cứu  tỷ mĩ lâu dài. “ Tinh ” là  ngôi sao, là tinh tú trên bầu trời. Như vậy, chiêm tinh có nghĩa là : nghiên cứu các vì sao trên bầu trời.

Như vậy, Lễ Hiển Linh là một Lễ nhắc nhớ về một Mầu Nhiệm mang tính khoa học, nghĩa là vừa khoa học, vừa linh thiêng, có thể nói cách khác Lễ Hiển Linh là nhắc nhớ về Khoa học và Tôn Gíao.Như vậy, dẫn chứng được khoa học có trong siêu nhiên, vì tự nhiên nhờ siêu nhiên mà có.

Con người tin có khoa học, nhưng họ lại phủ nhận siêu nhiên, vì khoa học chỉ là những định luật chứng minh đã có sẵn, mà con người tìm kiếm, khai thác, chứ không phải khoa học là do con người tao ra, sức lao động của con người chỉ chứng minh điều đã có trong vũ trụ. Như vậy, khoa học có sẵn trong vũ trụ, mà vũ trụ mặc nhiên không do con người tạo thành, mà do một Đấng Toàn Năng, đó là Thiên Chúa.

Người ta có học triết học và Thần Học , thì chính là những môn khoa học về Thiên Chúa. Như bóng tối và ánh sáng chẳng hạn, đó là chân lý và tình yêu. Chân lý là ánh sáng, tình yêu là bóng tối. Vậy , nếu chúng ta nói : “ Thiên Chúa là Chân lý” , thì rõ rồi, bởi vì, “Thiên Chúa là ánh sáng”. Nhưng, khi chúng ta nói :” Thiên Chúa là tình yêu”, chẳng lẽ, “ Thiên Chúa là bóng tối “ hay sao ?!. Vâng, như vậy, đến đây thật “lấn cấn”, vậy phải lý giải làm sao , khi nói : “ Thiên Chúa là tình yêu”?! Như , chúng ta biết, Thiên Chúa tạo dựng đất trời có ngày và đêm, rõ ràng, ban ngày , không thể có 24 giờ, ban đêm cũng vậy, không thể có 24 giờ. Thiên chúa phân định ngày và đêm thật rõ ràng. Tại sao, chúng ta phân biệt được Ngày và Đêm, vì ngày có ánh sáng, đêm có bóng tối. Ánh sáng và bóng tối : chính là Chân Lý và Tình Yêu. Vậy, ai nói : Tình Yêu là : Ánh Sáng thì không phải. Tình yêu chính là bóng tối, như người ta thường nói: “ yêu là mù quáng”. Bởi vì: Tình yêu là bóng đêm, thì không thể sáng được.

Vâng, chỉ có Tình Yêu của Thiên Chúa mới có “ánh sáng”, bởi vì, Thiên Chúa “làm Chủ” ngày và đêm. Như vậy, “Tình Yêu” của Thiên Chúa không ở trong “ bóng tối”.

Từ đó, chúng ta hiểu được Thánh Gía Cứu Độ, chính là :  “Ơn tha thứ” của Thiên Chúa qua Đức Kitô . Bởi vì, “Tình Yêu” không thể tách rời khỏi Thiên Chúa , cũng như ngày và đêm không thể tách rời nhau. Cũng vậy, “Tình Yêu” nơi Thiên Chúa không thể tách khỏi “ chân lý “ nơi Ngài được. Vâng, vì vậy “ Thiên Chúa là Tình yêu” chính là một “Chân Lý”. Vì vậy,  Tình Yêu nơi Thiên Chúa không phải là “ bóng tối” mà là “ánh sáng” Ánh Sáng ban sự sống. Vì, một ngày chỉ có “ màn đêm”, thì vạn vật không sống được. Cũng vậy, một ngày chỉ có “ban ngày” mà thôi, nghĩa là chỉ có ánh sáng, thì vạn vật không thể sống nổi. Vì thế, vạn vật phải “ chấp nhận “ tình yêu, dù nguyên lý của “ tình yêu” là bong đêm.

Nếu ai đó, sống thiên về lý trí, thì người ta bảo: Nó sống khô khan, không có tình cảm. Còn nếu, người nào đó, sống thiên về tình cảm, thì người ta nói : Nó sống ủy mỵ, nhu nhược, ngu si .

Vâng, từ đó, chúng ta cần sống theo” Ngôi Sao Giêsu”, vâng, “Ngôi Sao Lạ” Giữa Đêm Giáng Sinh, chính là “ Ngôi Sao Lạ” dẫn đường cho ba nhà chiêm tinh trong Lễ Hiển Linh hôm nay, chính là “NGÔI SAO GIÊSU” vậy./. Amen

Vâng, xin cúi lạy “Ngôi Sao Giêsu”, Ngôi Sao dẫn đường cho chúng con thoát mọi cạm bẫy của Satan và thế gian, để chúng con bước theo “Ánh Sáng” chỉ đường là chính Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen

Thích, theo dõi và chia sẻ!


Các tin mới cập nhật:

Lời hay ý đẹp

HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ GÒ VẤP

523A  Lê Đức Thọ, P.16, Q. Gò Vấp, Tp HCM
ĐT: 028 38941492
Email : vanphongnhamemtggv@gmail.com
Web: https://hdmenthanhgiagovap.info

RSS
YouTube
YouTube