CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM C

 

Chúng tôi phải làm gì?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

 

Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì?”. Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là:

Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mắc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.

Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.

Những người Do Thái thời Thánh Gioan Tẩy Gỉa thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã gặp được Chúa. Hôm nay ta cũng tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.

 

Ta luôn bất bình với thế giới chung quanh. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời Thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa. Amen.

 

 

 

 

Hãy canh tân cuộc sống của mình.

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Linh mục Antony de Mello Dòng Tên đã kể lại câu chuyện sau đây về một nhà tu Ấn Độ nổi tiếng. Vị tu sĩ đáng kính này đã nhận định về cuộc đời của mình như sau: “Khi còn trẻ, tôi là một con người hăng say cách mạng và lời cầu nguyện của tôi lúc đó dâng lên Thiên Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để thay đổi trọn cả thế giới này”. Nhưng rồi khi tôi sống đến nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa thay đổi được ai cả, tôi ít tự phụ hơn và cầu nguyện cùng Chúa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con một ơn này mà thôi, là có thể thay đổi được những ai mà con gặp hằng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè. Chỉ được như thế thôi thì con cũng mãn nguyện lắm rồi”. Nhưng giờ đây đến lúc già, tháng ngày đời tôi sắp tàn, tôi ý thức mình đã tự phụ và điên rồ, tôi chỉ còn cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con”. Nếu tôi đã sống và cầu nguyện như thế ngay từ đầu cuộc đời của tôi, thì tôi đã không uổng phí cuộc sống của mình”.

Lời tự thú trên đây của nhà tu hành người Ấn Độ nhắc chúng ta một điều căn bản là, hãy thay đổi chính bản thân của mình trước để có thể giúp anh chị em mình, xã hội mình thay đổi sau đó. Truyền thống đạo đức từ ngàn xưa còn nhắc mỗi người chúng ta hãy “tu thân, tề gia” rồi mới mong “trị quốc, bình thiên hạ”. Tất cả đều bắt đầu với cuộc nhỏ. Đó là tu thân, là thay đổi chính cuộc sống của mình theo tinh thần Tin Mừng của Chúa. Đây là một điều rất khó.

Các bài đọc hôm nay dường như muốn nhắc chúng ta điều này. Bài Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại lời mời gọi ăn năn hối cải mà Gioan Tẩy Giả công bố cho tất cả mọi người. Nhưng trước khi công bố lời mời gọi ăn năn hối cải đó, Gioan đã sống thật trong cuộc đời của mình, điều mà ngài truyền dạy cho kẻ khác, đến xin ngài hướng dẫn: “Thưa Ngài chúng tôi phải làm gì?” Gioan đã lên tiếng kêu gọi: thực thi tình liên đới bác ái, thực thi công bằng, từ bỏ bạo lực, sống tôn trọng trật tự, sống hòa bình. Chỉ khi nào con ngươì và nhất là đồ đệ của Chúa Kitô thực hiện thật sự một cuộc trở lại của chính con người của mình, thì lúc đó, con người mới hưởng được niềm vui của Chúa, mới có thể sống an vui theo như lời mời gọi của tiên tri Sôphônia mà chúng ta đọc qua trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ hôm nay, và lời mời gọi của thánh Phaolô tông đồ nơi bài đọc thứ hai: “Anh em thân mến! Hãy vui luôn trong Chúa”. Làm sao chúng ta có thể sống an vui được khi tâm hồn chúng ta chưa thật lòng trở lại cùng Chúa, chưa dứt khoát chừa được những tội lỗi, chưa bỏ đi được những tâm tình tiêu cực, ghen tương, hận thù đố với anh em xung quanh.

 

Trong tập sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có những suy tư sau đây về niềm vui của đức tin Kitô. Chúng ta có thể chia sẻ lại những suy tư của Đức Thánh Cha như sau: “Tin Mừng có nghĩa là tin mang đến niềm vui mừng và Tin Mừng luôn là một lời mời gọi con người sống vui tươi. Tin Mừng là một lời xác nhận cao cả cho giá trị của thế giới và giá trị của con người. Bởi vì Tin Mừng là chính sự mạc khải sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch nguyên thủy của niềm vui và hy vọng cho con người. Tin Mừng trước hết là niềm vui của công cuộc sáng tạo. Thiên Chúa khi tạo dựng đã nhìn thấy tạo vật Ngài đều tốt đẹp. Ngài là nguồn mạch của niềm vui cho mọi tạo vật và trước hết cho toàn thể nhân loại. Ngài nói với mọi tạo vật như sau: Sự hiện hữu của con là điều tốt đẹp. Và niềm vui của Thiên Chúa được phổ biến ra nhất là qua Tin Mừng. Theo đó, điều tốt lành luôn luôn cao cả hơn mọi điều xấu trong thế giới này. Thật vậy, sự xấu không phải là điều căn bản và không có tính cách quyết định vĩnh viễn. Đây là điểm phân biệt rõ ràng đạo Kitô ra khỏi mọi hình thức của thuyết bi quan hiện sinh, ra khỏi mọi hình thức nhận định bi quan về cuộc sống con người. Thiên Chúa là nguồn mạch của niềm vui và hy vọng cho con người”.

 

Chúng ta hãy đến với Thiên Chúa, hãy đến gần Thiên Chúa hơn, hãy canh tân cuộc sống của mình để được niềm vui và vui thật.

 

Lạy Chúa, nếu chúng con không đủ can đảm để đến với Chúa, thì xin Chúa thương hãy đến với chúng con. Hãy đến chứng tỏ tình yêu thương của Chúa và tha thứ mọi tội lỗi chúng con đã phạm. Xin hãy tẩy sách tâm hồn chúng con khỏi những tâm tình oán hờn, ghen tương, hận thù, để chúng con thật sự sống trong ân sủng của Chúa, thật sự sống trong niềm vui và hưởng được niềm vui vì được Chúa thương ngự đến.

 

 

 

Niềm vui làm cho con người tươi trẻ.

 

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

 

Trong bầu khí chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Lời Chúa hôm nay kêu mời chúng ta sống trong niềm vui. Ngay từ ca nhập lễ, Giáo Hội dùng lời thánh Phaolô tông đồ kêu gọi tín hữu thành Philipphê để nhắc nhở tất cả: “Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa, anh em hãy vui lên vì Chúa đã gần đến”. Và khởi đầu bài đọc thứ nhất trích từ sách tiên tri Sôphônia, chúng ta nghe những lời đầy khích lệ: “Hỡi thiếu nữ hãy cất tiếng ca. Hỡi Israel hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn”. Rồi đến câu đáp ca cũng kêu gọi: “Hãy nhảy mừng và ca ngợi vì ở giữa ngươi có Đấng thánh của Israel thật cao cả”. Như thế Giáo Hội muốn chúng ta đón Chúa Cứu Thế với một tâm hồn thật vui vẻ. Niềm vui rất cần cho đời sống con người, ai cũng mong cho đời sống mình được luôn vui tươi.

Trong những cánh thiệp chúc mừng dịp lễ tết, người ta đều chúc nhau vui tươi hạnh phúc. Khoa tâm lý ngày nay còn chứng minh niềm vui làm cho con người tươi trẻ lâu già và sống lâu hơn. Và trên thực tế, con người cố tạo được nhiều cuộc vui chừng nào tốt chừng nấy và mỗi cuộc vui càng kéo dài càng hay. Nhưng phải là những niềm vui nào? Vì có những niềm vui mà sau đó con người cảm thấy trống rỗng buồn sầu và chán nản. Có những niềm vui mà sau đó con người mệt mỏi và thất vọng. Có những niềm vui mà sau đó con người lo âu hối hận. Vậy niềm vui mà Giáo Hội cầu chúc và mong muốn con cái mình đạt được đây phải là niềm vui thật. Niềm vui lâng lâng của Mùa Giáng sinh, khi thấy những trang hoàng rực rỡ với đèn màu, với ngôi sao hang đá máng cỏ, khi nghe những bản thánh ca du dương dịu vợi, khi nhận cánh thiệp với những lời cầu chúc êm đềm từ những người thân yêu. Tất cả vẫn luôn là niềm vui chính đáng. Nhưng chưa phải là niềm vui thật. Vì lễ Giáng sinh sẽ qua đi, mọi trang hoàng sẽ được dẹp lại, mọi người đều trở về với cuộc sống hằng ngày. Niềm vui thật phải là niềm vui phát xuất từ bên trong của con người. Đi tìm nguồn vui bên ngoài mà thôi chỉ là một sự chạy trốn thực tại trong tâm hồn và thường thì không bao giờ đạt được kết quả vì “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Niềm vui chân chính phải bắt nguồn từ một trạng thái của tâm hồn và đặt nền tảng trên sự bình an. Đó là niềm vui đã làm cho thánh Phanxicô trong cảnh nghèo khó tự nguyện hòa tâm hồn mình cùng vạn vật ca hát chúc tụng Thiên Chúa. Đó là niềm vui mà thánh Têrêxa Hài Đồng đã nói: “Niềm vui mằm trong cuộc sống con người và con người có thể đạt được nó bất cứ lúc nào và ở đâu, ngay cả trong lâu đài tráng lệ của hoàng cung hay trong chốn thâm u của ngục tù”.

 

Làm thế nào để đạt được niềm vui đó? Trong bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại: Gioan Tiền Hô, người hô hào: “Hãy sửa đường cho Chúa bằng phẳng và ngay thẳng”, đã trả lời câu hỏi cho từng lớp người đến hỏi ông. Dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?” Gioan đã trả lời: Hãy sống yêu thương và bác ái. Biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ với những người kém may mắn hơn mình, đừng lợi dụng địa vị, quyền hành hà hiếp người khác. Nói tóm lại, vì Chúa quên mình phục vụ anh chị em và chu toàn bổn phận hằng ngày của mình, đó là đường dẫn đến niềm vui thật sự.

Mảnh đất tốt cho niềm vui thật phát triển là tình thương yêu nhau giữa con người. Sống trong một thế giới đầy dẫy hận thù chiến tranh, sống trong một xã hội cá lớn nuốt cá bé, sống trong một môi trường tranh đấu lừa đảo, gạt gẫm nhau để sống làm cho chúng ta có một tư tưởng bi quan: con người chắc là không bao giờ yêu thương nhau được, con người khó thực hiện những điều Gioan Tiền Hô chỉ dạy trong Phúc Âm. Dầu vậy, chúng ta đừng bi quan mà hãy nhớ đến phúc thật thứ bảy Chúa Giêsu đã dạy: “Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy”. Và một điểm nữa giúp chúng ta lạc quan là mẫu số chung của tất cả mọi người, mọi phe nhóm, mọi xu hướng, mọi chủ trương đều là hòa bình và huynh đệ yêu thương nhau.

Thật vậy, nếu chúng ta có dịp hỏi tất cả mọi người, tất cả mọi tổ chức kể cả những tổ chức đang cầm súng lăn xả vào chiến tranh xâm lược, thì trong thâm tâm họ, họ vẫn tin là họ yêu mến hòa bình và huynh đệ, dầu cho họ sai lầm trong phương tiện. Đó có thể là mẫu số chung, là điểm phát xuất chung để dựng một thế giới an vui. Và điều những người có đức tin càng tin tưởng vững chắc là Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong lịch sử của con người, lịch sử cứu độ nhất là kể từ sự nhập thể của Chúa Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là một sự hiện diện sống động như chính Chúa Giêsu đã nói: “Cha ta làm việc liên lỉ; Ta cũng thế”. Sự hiện diện đó không bao giờ để một bên những nghịch cảnh, những đau buồn của con người nhất là những con người bị áp bức, bị kìm kẹp.

Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh này, chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan vào vũ trụ, vào đời sống con người trên mặt đất này. Vì hãy biết rằng, công việc tạo dựng cũng như công việc cứu chuộc là công việc của Thiên Chúa, và công việc Chúa làm thì không bao giờ thất bại. Bằng chứng là gương của Chúa Giêsu, sau sự đau khổ cùng cực và cái chết đau thương nhục nhã là sự sống lại vinh quang làm vua cai trị trời và đất. Với cái nhìn lạc quan đó và với lòng tin tưởng Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng từ bi thương xót, chúng ta hãy luôn sống trong niềm vui và hy vọng. Niềm vui và hy vọng đó phải thúc đẩy mỗi người chúng ta cộng tác tích cực vào công trình cứu rỗi, nhờ ơn Chúa và với những người thành tâm thiện chí.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng năng nhớ đến lời tiên tri Sôphônia trong bài đọc thứ nhất để sống tin tưởng vào Chúa hơn: “Hỡi Sion đừng sợ, Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi”. Và cụ thể hơn, tôi sẽ cố gắng không than van về những cực nhọc hoặc đau buồn tôi đang gánh chịu, nhưng biết chấp nhận cho người khác được vui và luôn cố gắng tươi cười niềm nỡ với tất cả mọi người, nhất là những người trong gia đình của tôi.

 

 

 

Hãy vui lên.

 

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hàng Ngày’)

 

Alqua Robil là một nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới hiện nay. Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng ông đã nói về Chúa Giêsu như sau: “Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao vời và lý tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Ngài là người Do Thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do Thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa bao giờ nhận được. Đó là món quà của “tình yêu thương”; tình yêu thương đối với tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao thượng.”

Phải! Nhận xét trên đây của nhạc sĩ Alqua Robil thật sâu sắc và chí lý. Đúng thế! Ở đâu có tình yêu thương, thì ở đó có hạnh phúc tươi vui và an bình đích thực. Bởi vì, tình yêu thương là phương thế duy nhất hữu hiệu giúp con người xây dựng một thế giới tốt lành hơn mà không gây đổ máu, chết chóc và tàn phá thương đau cho con người.

Qua các bài đọc hôm nay, Mẹ Giáo hội kêu mời chúng ta thực thi tình yêu thương ấy trong cuộc sống mỗi ngày. Trong chương III, thánh Luca trình thuật biến cố ngôn sứ Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa thống hối bên bờ sông Jordan, để nêu bật tính cách đại đồng của ơn cứu độ. Thánh sử Luca lồng khung sinh hoạt này của thánh Gioan Tẩy Giả trong những môi trường và với những lớp người vẫn thường bị Do Thái giáo cho là tội lỗi, như đám đông dân chúng dốt nát, ô hợp, bọn thu thuế gian tham xảo trá và lũ lính tráng vô đạo ác độc.

Là người có nếp sống chay tịnh khắc khổ, khi nghe ngài giảng, người ta tưởng đâu là thánh Gioan cũng nghiêm ngặt đòi buộc mọi người sống khổ hạnh tiết chế như ngài. Nhưng không, thánh nhân không đòi buộc họ làm những việc lạ thường khó khăn, mà chỉ khuyên mọi người thay đổi kiểu cách sống và thái độ hành xử đối với người khác. Thánh nhân đề nghị với một thái độ sống quân bình, biết thực thi công lý và yêu thương, chia sẻ cụ thể với tha nhân như:

 

– Ai thuộc lớp người giàu có, dư tiền dư của và phương tiện vật chất thì từ nay đừng sống ích kỷ, bo bo vơ vét tích trữ cho mình như trước nữa, mà hãy biết chia sẻ cơm áo, quảng đại trợ giúp cho họ có công ăn việc làm, tạo điều kiện sinh sống cho các anh chị em nghèo khó thiếu thốn hơn mình, cốt sao để họ có cuộc sống hạnh phúc sung sướng và đầy đủ, xứng đáng với phẩm giá con người.

– Ai thuộc lớp công nhân viên nhà nước, nắm giữ các nhiệm vụ trong các guồng máy hành chính, thuế má và mọi dịch vụ ngành nghề của cuộc sống, thì từ nay đừng ỉ nại quyền bính mà gian tham, hối lộ, chèn ép, áp bức, hà hiếp và khai thác bóc lột người dân nữa, nhưng hãy sống công bằng.

Nhà nước và các giới chủ hãng hãy trả tiền lương công nhân viên của mình, còn các công nhân viên hãy chu toàn bổn phận của mình với lương tâm nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm và phục vụ cao độ. Bởi vì, khi thăng tiến công ích là mọi người phục vụ và lo lắng cho chính gia đình mình, cho tương lai của con cái và những người thân yêu của chính mình, chứ không phải cho ai khác.

– Giới quân nhân là những người có phận vụ phụng sự quê hương và bênh đỡ kẻ cô thân, cô thế thì hãy biết chu toàn phận vụ với tinh thần hào hiệp và ý thức trách nhiệm, chứ đừng dùng vũ khí và chức vụ của mình để hà hiêp bóc lột người dân.

Nói cách khác, thánh Gioan Tẩy Giả khuyên mọi người có kiểu cách sống và hành xử công bằng, yêu thương, liên đới và biết tôn trọng tha nhân, làm thế nào để loại trừ ra khỏi cuộc sống của chúng ta mọi hình thức bạo lực, ích kỷ, tính gian dối lừa đảo, lòng ham hố của cải và tư lợi, gây thiệt thòi và đau khổ cho nhau. Dĩ nhiên, kiểu cách sống trên đây chưa đủ để con người có thể trở thành môn đệ và con cái của Chúa, nhưng nó là một bước khởi đầu cụ thể tốt đẹp, giúp sửa soạn tâm hồn đón nhận Chúa Cứu Thế đến.

Ngoài những kiểu cách hành xử kể trên, cuộc sống lòng tin của người tín hữu còn phải mang một đặc thái khác, đó là thái độ tươi vui mà ngôn sứ Sôphônia nói đến trong chương 3,14-18. Ngôn sứ Sôphônia sống vào cuối thế kỷ VII, và thời đó có rất đông dân thành Jérusalem và vùng Judéa chạy theo các thần linh ngoại giáo. Họ chủ trương hòa đồng các thói tục tôn thờ thần ngoại này với việc phụng sự Thiên Chúa. Ngôn sứ Sôphônia đã mạnh mẽ tố cáo thái độ lệch lạc và bất trung này của họ. Ông báo trước cho họ biết các hình phạt họ sẽ phải gánh chịu, đó là cảnh thành thánh Jérusalem sẽ bị đạo quân Babylon bủa vây đánh chiếm.

Để diễn tả tai ương này, ngôn sứ dùng kiểu nói “Ngày Của Giavê”. Trong ý nghĩa Kinh Thánh, “Ngày Của Thiên Chúa” ám chỉ biến cố Thiên Chúa phán xử con người và mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung. Trong ngày lịch sử thế giới kết thúc, Thiên Chúa ra tay uy quyền can thiệp để tạo dựng trời mới đất mới. Đó là thời gian quyết liệt định đoạt đối với vận mệnh con người, hoặc rộng mở tâm hồn đón nhận ơn cứu độ hoặc tự loại trừ khỏi hàng ngũ những người sẽ được cứu thoát.

Tuy nhiên, ngôn sứ Sôphônia cũng hé mở cho dân Do Thái lòng xót thương nhân lành của Thiên Chúa và sự hiện diện cứu độ của Ngài. Thiên Chúa sẽ đến để thu hồi án phạt, chấm dứt tình trạng đọa đày buồn thương cho họ và cứu thoát họ. Chính vì thế, ông mời gọi mọi người “hãy vui lên”, hãy reo hò hớn hở hân hoan, vì Sion là người con gái yêu của Thiên Chúa. “Con gái” là kiểu nói hay được thơ văn của các dân tộc vùng Trung Đông cổ dùng để gọi các thành phố vùng biển.

Trong truyền thống Kinh Thánh, “con gái Sion” ám chỉ nhóm tín hữu còn sót của dân Israel, tức những người đã kiên trung tin tưởng vào Thiên Chúa, tuân giữ luật Ngài và mong chờ Đấng Cứu Thế đến. “Vui lên” cũng là động từ thánh sử Luca dùng trong trình thuật thiên thần Gabriel truyền tin cho Trinh Nữ Maria. Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để cứu chuộc nhân loại là một tin vui vĩ đại. Chính vì thế, nên sứ thần mới chào Mẹ Maria với lời chào lạ lùng: “Hãy vui lên, Đấng đầy ơn phúc”.

Mẹ Maria là người được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn, nên được tràn đầy ơn thánh Chúa. Mẹ là hiện thân số còn sót lại của Israel, của cộng đoàn nhỏ bé gồm các tín hữu đã biết sống trung thành với Thiên Chúa và lời hứa của Ngài. Đồng thời Mẹ cũng là toàn thân của Israel đang trông đợi ơn cứu độ thực hiện trong lịch sử loài người. Mẹ Maria là Sion mới, nơi Thiên Chúa sẽ xuống ngự trị và sống với con cái loài người.

Trong chương 4,4 thư thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê, Ngài cũng lập lại sứ điệp Tin Mừng ấy và khuyến khích tín hữu sống vui tươi, để trong cuộc đời hãy quên hết mọi khó khăn đau đớn tủi nhục và gian truân cay đắng để chỉ còn cảm thấy niềm vui. Niềm vui đó được phát xuất từ chính tình yêu thương của Chúa Giêsu Kitô, và Ngài giải thích lý do của niềm vui đó là: Kitô hữu có nhiều lý do thuận tiện để luôn có thái độ sống vui tươi. Bởi vì kể từ khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, thì Thiên Chúa đã hiện diện giữa lòng trần gian và Ngài đồng hành với họ, chia sẻ mọi biến cố vui buồn trong đời họ.

Qua bí tích rửa tội, Ngài đã giải thoát họ khỏi xích xiềng nô lệ tội lỗi, trả lại cho họ sự tự do, ơn làm con cái Thiên Chúa. Tin vui cứu độ ấy không cho phép Kitô hữu buồn sầu thất vọng như những người không có niềm tin. Có Chúa trong lòng, có Chúa trong đời, có Chúa kề bên thì người Kitô hữu có được tất cả.

Vì thế, họ phải sống tin yêu phó thác và an bình, tươi vui, không âu lo, không sợ hãi. Kết hợp với Chúa qua lời cầu nguyện, qua cuộc sống đối thoại thân tình với Ngài. Họ phó thác mọi sự cho Chúa, và noi gương Chúa Giêsu sống nhân hậu, sống tốt với mọi người, yêu thương, thông cảm và quảng đại với mọi người. Nếu Giáo Hội đánh mất đi sự tươi vui của mình, thì điều đó có nghĩa là Giáo Hội đã đánh mất đi tất cả. Khi đó Giáo Hội không làm chứng cho niềm hạnh phúc là hôn thê của Chúa Kitô nữa, và điều đó cũng có nghĩa là tình yêu đã chết hay đang hấp hối. Tuy nhiên, khi đó Giáo Hội sẽ không còn khả năng yêu thương con người hay yêu thương với một tình yêu buồn sầu, mà tình yêu buồn sầu thì không phải là tình yêu.

 

Cũng thế, một tín hữu không còn khả năng sống tươi vui là dấu chỉ họ chưa gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, Khi người Kitô hữu đánh mất đi niềm vui, thì họ phải tự vấn lương tâm mình xem nó có phải là ấu trĩ hay không? Và nếu quả thật có như vậy, thì đây là lúc chúng ta phải nghe lời thánh Phaolô kêu mời: Anh chị em hãy tìm lại Chúa Kitô, nghĩa là món quà và ơn thánh quí báu nhất trong Mùa Vọng hay sao?

 

 

 

Chúng tôi phải làm gì?

 

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật – Năm C’)

 

Bác sĩ Karl Menniger, trưởng khoa tâm bệnh học của Mỹ làm nhiều người kinh ngạc khi đọc cuốn “Whatever became of sin” (Điều gì đang xảy đến cho tôi?) Ông bắt đầu cuốn sách với câu chuyện khiến mọi người phải suy nghĩ. Vào một ngày Chủ nhật tháng 9 năm 1972, trên góc phố đông người qua lại, xuất hiện một nhà giảng thuyết. Vào lúc các nhân viên văn phòng vội vã lo đi ăn trưa, ông thình lình giơ cánh tay gầy guộc dùng ngón tay xương xẩu chỉ vào một nhân viên nào đó la lên: “Anh là kẻ có tội”, đoạn ông đứng im, nghỉ vài giây, rồi lại chỉ vào một người khác và la lên: “anh là kẻ có tội”.

Bác sĩ Menniger nói: “Tác động mà nhà giảng thuyết gây ra nơi những người bộ hành đi qua đó thật là kỳ lạ”. Họ lấm lét nhìn ông rồi quay mặt đi chỗ khác, rồi lại lén nhìn nữa, và cuối cùng vội vàng đi tiếp…

Chắc hẳn Gioan Tẩy Giả cũng gây được tác động tương tự trên đám dân khi Ngài xuất hiện bên bờ sông Giođan. Hẳn nhiên, một số chế nhạo Ngài, một số tức giận khó chịu, một số khác giật mình như bị chích vào vùng nhạy cảm, tự tận thâm sâu của lòng họ nhận ra sự sai quấy đã làm. Chúng ta đọc thấy phản ứng đó qua câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”. Trong cuốn sách nói trên, bác sĩ Menniger cho thấy người thời nay làm nhiều điều sai quấy, nhưng điều đó không làm cho ông ưu tư, điều ông ái ngại là có rất nhiều người không chịu chấp nhận rằng mình làm điều sai quấy, chính vì thế mà nhà giảng thuyết trên chỉ nói: anh là kẻ có tội đã tạo ra một tác động kỳ lạ nơi những nhân viên làm việc tại Chicago.

Dầu con người chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật vẫn là con người là một tội nhân:

Mọi người đều phạm tội, Thánh Kinh chép: “Chẳng một người nào công chính dù chỉ một người thôi. Mọi người đều trở mặt, đi vào đường lầm lạc. Chẳng một ai làm lành, dù chỉ một người cũng không. Vì mọi người đều phạm tội không còn phản chiếu vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,10.12.23).

Nếu vua tiên tri Đavít có thú nhận: “Lúc chào đời, con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” thì cũng chỉ nói lên thân phận của kiếp người trước cái nhìn của Thiên Chúa.

“Nếu chúng ta chối tội là chúng ta tự lừa dối, và không chịu nhìn nhận sự thật. Nếu chúng ta bảo mình vô tội là cho Chúa nói dối” (1Ga 1,8.10).

Chúa Giêsu khẳng định với Nicôđêmô: “Thể xác chỉ sinh ra thể xác. Thánh Linh mới sinh ra tâm linh”. Như vậy cần phải tái sinh.

Nhưng việc tái sinh này, Gioan Tẩy Giả không làm được, ông có thể cho con người biết mình tội lỗi, như các người thu thuế nhận ra mình có lỗi trong việc thu thuế quá mức, đám lính tráng nhận ra mình hay bắt nạt dân chúng, còn tất cả dân chúng đều nhận ra tội ích kỷ không chia sẻ của cải cho những ai túng thiếu. Ông đòi buộc dân chúng xét lại tâm hồn mình và nhận biết lỗi lầm. Ông còn đòi họ phải từ bỏ tội lỗi để quay về với Thiên Chúa… Nhưng còn việc tha tội thì ông không làm được. Ông không làm được nhưng có thể chỉ cho người ta Đấng có thể làm điều ấy: “Tôi thì lấy nước mà rửa cho các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa”. Rửa trong Thánh Thần là cách nói khác của tái sinh, là lãnh nhận ơn tha thứ tội lỗi do công ơn cứu chuộc của Đức Kitô trên thập giá. Đó chính là lý do vui mừng mà thánh Phaolô đã kêu gọi và là cao điểm của Thánh Lễ Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay.

Chúng ta phải hết sức ngạc nhiên khi xét đến bối cảnh mà vị tông đồ đã đưa ra lời kêu mời vui mừng này. Đây không phải là như một người đang vui say lạc thú trần gian đưa tay cầm ly rượu kêu mời bạn hữu, nhưng là một con người đang sống trong ngục tù, Phaolô đã được đưa về giam tại Rôma, đang chờ đợi bản án chung kết, có thể là tử hình (và sau này là tử hình thật). Chỉ trong một bức thư gửi giáo đoàn Philipphê, ngài đưa ra lời kêu gọi vui mừng này tới hai lần, và lần nào cũng “tôi nhắc lại” với một tâm tình tha thiết đặc biệt. Người cha tinh thần ấy đang động viên tinh thần đoàn con của mình trong hoàn cảnh khó khăn mà họ đang phải đương đầu. Ông không thuyết giảng một cách mơ hồ, nhưng khích lệ họ với chính kinh nghiệm của bản thân mình, tại sao ông có thể vui và vui luôn, dầu trong bất cứ hoàn cảnh nào?

Ông có thể vui vì ông đã được tha thứ. Không ai có thể vui vì mình là tội nhân, nhưng vì tội nhân đã được tha thứ: “Đây là lời trung thực, đáng được mọi người tin nhận: Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến trần gian để cứu vớt những người tội lỗi. Trong những người được cứu, ta nặng tội nhất” (1Tm 1,15). Ông nặng tội, bởi vì “trước kia, ta là người phạm thượng, tàn bạo, khủng bố người theo Chúa, nhưng Chúa còn thương xót vì ta không hiểu điều mình làm khi chưa tin nhận Ngài” (1Tm 1,13). Chỉ những ai nếm trải được sự tha thứ này mới cảm nhận được điều mà thánh tông đồ chia sẻ. Mỗi lần chúng ta phạm tội, lòng chúng ta luôn áy này, tâm hồn chúng ta nặng chĩu như bị một khối nặng đè lên, nhưng khi vừa được ơn tha thứ, biết rõ tội mình được tha, lòng chúng ta được thanh thoát, khối nặng đã bị cất đi…

Phaolô vui mừng vì tội được tha, vì ngài biết rõ Đấng ngài đặt niềm tin vào: “Vì ta biết rõ Đấng ta tin cậy, chắc chắn Ngài có quyền bảo vệ mọi điều ta uỷ thác cho đến ngày cuối cùng” (2Tm 1,12). Ông đã ký thác linh hồn mình cho Chúa Giêsu, và ông biết chắc chắn cuộc đời ông sẽ kết thúc như thế nào, sẽ dẫn ông đến bến bờ nào. Được như thế là nhờ: “Ta cứ chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu là căn nguyên và cứu cánh của đức tin. Nhằm vào niềm vui tối hậu, Chúa đã kiên nhẫn vác cây thập giá xem thường sỉ nhục, và hiện nay ngồi trên ngai uy quyền tuyệt đối, bên phải ngai Thiên Chúa” (Dt 12,2). Cả cuộc đời đã như thế, còn gì mà không vui mừng: “Riêng phần ta, ta biết gần đến ngày từ giã trần gian, về thiên đàng. Ta đã chiến đấu anh dũng, chạy xong cuộc đua, giữ vừng niềm tin. Từ đây mão miện công chính đã dành sẵn cho ta. Chúa là Chánh án chí công sẽ ban cho ta trong ngày Ngài trở lại, cũng như cho tất cả những ai yêu mến, trông đợi Ngài” (2Tm 4,6-8).

Có lẽ trong chúng ta có người tự nghĩ: ai được như Phaolô, ai được Chúa đích thân gặp gỡ. Đúng thế, nhưng chúng ta cũng rất tự hào vì đã có một anh hùng tử đạo, không những có tinh thần của Phaolô, nhưng còn mang tên Phaolô nữa, đó là cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh.

Trong bức thư viết từ nhà giam tại Hà Nội đề ngày 24.04.1843 gửi cho các bạn ở chủng viện Vĩnh Trị, thầy viết: “‘Tôi, Phaolô Lê Bảo Tịnh, đang mang gông xiềng vì Đức Kitô, từ ngục thất tôi gửi về các bạn những lời chào thân ái, và chắc chắn là những lời chào sau cùng… Tù ngục này quả là hình ảnh sống động của hoả ngục muôn đời. Không kể gông cùm xiềng xích, tôi còn phải nghe, phải chứng kiến, phải chịu đựng những oán ghét, thù hằn, những lời phỉ báng Thiên Chúa, những lời nói dâm ô, những cuộc xô xát, những hành vi bỉ ổi, những lời thề nguyền gian dối. Ngoài ra, tôi còn phải chịu phiền cực, chịu muỗi đốt, rệp cắn. Đã hết đâu, người ta còn luôn tuôn ra những lời căm hờn chửi rủa vua quan, bạn hữu, cha mẹ… Ngoài những đau khổ nói trên, mùa hè tôi phải chịu cái nóng nung người, mùa đông chịu rét buốt. Qua nhiều năm không bao giờ nhìn thấy mặt trăng hay ánh sao. Suốt đêm tôi không ngủ được, hoặc chỉ chợp mắt một vài trống canh là cùng… Nhưng nhờ ơn Chúa, ở giữa những cực hình thường làm cho các tù nhân khác phải sầu khổ, tôi lại được tràn ngập hoan lạc, vì tôi không cô đơn, nhưng Chúa Kitô ở với tôi. Chính Người, Thầy của chúng ta, chịu đựng sức nặng của cây thập giá, phần tôi, tôi chỉ vác cách nhẹ thôi. Vì Người không phải chỉ đứng xem chiến đấu nhưng chính Người chiến đấu và đắc thắng. Chính Người sẽ kết thúc cuộc chiến đấu…”.

Nhưng xem ra cuộc chiến chưa kết thúc, thầy lại được ra khỏi ngục, tiếp tục tu, làm linh mục chui, trở thành giám học chủng viện Vĩnh Trị, để rồi lại bị bắt giam tại nhà tù Nam Định, ngày 6.04.1857, tức là mười hai ngày trước khi chịu tử đạo, cha viết cho chủng sinh: “Chúng con hãy ca tụng Chúa nhân lành vì việc Người đã thực hiện nơi cha”, sau đó cha kể sơ qua về đời sống khổ cực trong lao tù, rồi tâm sự: “Cha cảm tạ Chúa đến muôn đời vì Người cho cha được sống trong yên lặng, cha có thể cầu nguyện và suy niệm tuỳ ý. Cha sung sướng tin tưởng rằng không gì có thể phân ly cha khỏi tình yêu Chúa Kitô, dù tù tội, đói khát, gươm giáo hay cái chết, vì Chúa Kitô là sự sống của cha”. Và rồi cha nhắc lại hầu như đúng lời vị đại tông đồ: “Cha có thể nói rằng: đã đến giờ cha phải ra đi, cha đã giữ vững đức tin, đã chạy hết chặng đường và cha đã trông đợi rằng: vị Thẩm phán sẽ trao cho cha vòng hoa dành cho người công chính, không phải chỉ cho cha, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người đến”. Cha kết thúc bức thư: “Sau khi khuất đi, nếu có thế lực gì bên Chúa, cha hứa sẽ không bao giờ quên chúng con. Vĩnh biệt”.

Chính nhờ thế lực của các vị anh hùng đức tin bên toà Chúa, và gương sáng của cha ông để lại mà chúng ta có được như ngày hôm nay. Tôi xin kết thúc bài chia sẻ với câu truyện sau đây: “Khi đạo Chúa được truyền bá ở thành phố lớn nhất miền Nam, có rất ít người tin Chúa. Một hôm có người ga trưởng là thầy Lê theo đạo. Thầy về thuyết phục những người trong gia đình và bạn hữu ở Bình Trị Đông, nhưng không ai chịu theo. Mấy tháng sau, thầy đau nặng rồi qua đời. Khi an táng, các tín hữu chung quanh tới cử hành, họ đau buồn vì mất một người anh em thân yêu, nhưng tất cả đều có niềm an ủi lớn và vui thoả khác thường trong Chúa, vì biết chắc thầy Lê đang an nghỉ trong Nước Chúa như lời Chúa dạy. Niềm an ủi và vui thoả khác thường đó đã gây một ấn tượng sâu xa nơi những người dự đám tang. Sau đó ít lâu, cả gia đình thầy Lê xin theo đạo, và rất nhiều người ở Bình Trị Đông quyết định theo Chúa. Những người ấy khi tin Chúa đều nói rõ, tuy trước kia họ không muốn nghe Phúc Âm, nhưng niềm vui an ủi vui thoả của các tín hữu giữa đám tang thầy Lê đã khiến họ lưu ý đặc biệt, rồi tìm hiểu đạo và tin Chúa”

 

 

Để tiến tới một thế giới tốt hơn

Achille Degeest.

 

Sự thể nhiều hạng người khác nhau đến nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng cho thấy niềm hy vọng vào một thế giới tốt hơn phổ cập đến mức nào trong dân Israel. Với người Biệt phái và người Sa đốc tự tin đã giữ đạo bề ngoài mà thiếu thật lòng ăn năn trở lại thì chẳng ích gì. Với những người thu thuế, ông khuyên hãy thi hành chức vụ cách công bằng, vì thật vậy họ là nhân viên thuế vụ, thậm chí lại thu thuế cho người La mã đô hộ. Với những quân nhân, ông khuyên không nên dùng sức mạnh phục vụ cho bất công. Với tất cả đám đông, ông rao giảng hãy chia sẻ của cải, tương thân tương ái và thực thi công bằng cách thực tế. Ở điểm này chúng ta thấy rằng biến cố lớn là công cuộc cứu độ mà Gioan Tẩy Giả loan báo sắp xảy đến trong tương lai gần, nó liên quan đến khắp mọi người chẳng trừ ai. Để chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ, người ta cần thay đổi nếp sống cho phù hợp với tinh thần tôn trọng công lý và liên kết nhau trong tình thân ái.

 

Một vấn đề cho chúng ta: Phúc Âm loan báo một cuộc cách mạng. Vậy cách mạng này là gì?

 

1) Đó là một cuộc cách mạng nội tâm thực hiện bằng sự thanh tẩy tâm hồn trong Chúa Thánh Linh và trong lửa. Nhờ được thanh tẩy trong Chúa Thánh Linh, con người được mạc khải, nhận thức rằng mình là con Thiên Chúa. Qua trung gian Chúa Thánh Linh, con người nói với Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là Cha. Thanh tẩy bằng lửa là một sự thanh lọc thiêng liêng, là sám hối vì trót phạm tội, chấp nhận mình phải cố gắng xua đuổi sự dữ. Thanh tẩy do ông loan báo chính là phép rửa của Kitô giáo, là bí tích thăng tiến con người lên địa vị làm con Thiên Chúa, và điều hợp lý là từ đây con người phải tỏ ra xứng đáng với phẩm trật tôn quý đó.

2) Đó cũng là một cuộc cách mạng trong xã hội loài người –được thực hiện bằng bạo lực ư? Không, vì ông khuyên đám thính giả chớ dùng bạo lực, theo nghĩa cưỡng bách người khác làm theo ý mình. Ông cũng không đề nghị dùng bạo lực để giải phóng, nhưng nói rằng xã hội được giải phóng là do kết quả những nỗ lực mỗi cá nhân để cố gắng cư xử công bằng vì lòng bác ái. Tuy nhiên xin chớ hiểu lầm. Một hình phạt ghê gớm dành cho những kẻ nào vì ích kỷ, tham lam hoặc ác ý mà từ chối không đón nhận Tin Mừng. Thánh Gioan Tẩy Giả ví họ với rơm rạ người ta đem đốt sau vụ gặt. Một sự cưỡng bách chính đáng duy nhất là tự ép buộc mình thực thi công bằng bác ái. Sử dụng bạo lực đối với tha nhân, dù để đạt một cứu cánh mình cho là tốt, tất sẽ bị Thiên Chúa nghiêm phạt.

 

Sám hối.

 

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Nguyễn Cao Siêu)

Màu tím bao trùm mùa Vọng.

Các Kitô hữu lo sám hối để lãnh nhận bí tích Hòa giải. Nhiều người ngại xưng tội, ngại đào bới lại quá khứ. Xưng tội mang dáng dấp của một cái gì buồn thảm!

Thật ra bí tích Hòa giải là một điều tươi tắn hơn nhiều. Sám hối không phải chỉ là quay về quá khứ, mà còn là hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng.

Sám hối còn có màu hồng như màu áo lễ hôm nay.

Khi dân chúng đến với Gioan, nhận phép rửa sám hối, họ đã hỏi ông: Chúng tôi phải làm gì đây? Cả những người thu thuế và binh lính cũng hỏi những câu tương tự.

Chúng tôi: sám hối mang tính tập thể, tính liên đới. Hội Thánh chúng tôi cùng chịu trách nhiệm về sự dữ.

Phải: một thúc bách của trái tim hoán cải thực sự.

Làm gì đây: sám hối không phải chỉ là một cảm xúc, tuy thánh thiện, nhưng lại mông lung, xa rời thực tế.

Sám hối đích thực đưa đến một hành động cụ thể. Gioan đã cho ta những câu trả lời còn nguyên giá trị.

Sám hối là sống bác ái, có hai chia một. Nhường cơm sẻ áo là ra khỏi nỗi bận tâm về mình.

Sám hối là sống công bằng, không tham lam vơ vét, không dùng quyền lực để cưỡng đoạt, áp bức ai.

Sám hối là hết nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực. Như thế dọn đường cho Chúa đến bằng sám hối đòi ta chỉnh đốn lại con đường đến với tha nhân.

Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em.

Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề ô nhục, cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê. Ông cũng không bảo họ lên Đền Thờ dâng lễ đền tội, hay vào hoang địa sống nhiệm nhặt như mình. Họ cứ làm nghề của họ, nhưng với một tinh thần mới.

Sám hối thực sự thì đụng đến bàn tay, một bàn tay chứa đựng cả con tim và khối óc.

Trong mùa Vọng này, chúng ta phải hỏi nhau: mình phải làm gì?

Giới trẻ hôm nay muốn cảm thấy mình có ích, và muốn dùng thời giờ của mình sao cho có ý nghĩa.

Hãy gặp nhau, chấp nhận nhau và làm việc với nhau. Hãy cùng nhau làm một điều tốt nào đó cho đồng bào. Hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên.

Xưng tội cần dốc lòng chừa. Dốc lòng chừa đòi đổi lối nghĩ và lối sống.

Đứa con thứ cần sống khác, sau khi trở về nhà Cha.

Chúng ta đã được chịu phép rửa trong Thánh Thần, nhưng chúng ta vẫn cần được Thánh Thần thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta không thể tự sức mình canh tân cuộc sống. Trở lại với tình yêu là hồng ân của Thánh Thần. Ước gì chúng ta mềm mại để cho Ngài uốn nắn và dạy ta biết làm gì để bày tỏ lòng hoán cải.

 

 

Chúng tôi phải làm gì đây?

 

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Nguyễn Cao Siêu)

 

Lắm khi lối sống đạo hình thức và cằn cỗi của ta làm nhiều người coi Kitô giáo là một thứ duy tâm tự ru ngủ với những ý tưởng tuy đẹp nhưng chẳng bao giờ trở thành hiện thực trong cuộc sống. Thực ra Kitô giáo là tôn giáo của hành động. Niềm tin đích thực đòi nhập cuộc và dấn thân. Tình yêu đích thực đòi thực hiện cuộc cách mạng nơi lòng cá nhân cũng như ngoài xã hội.

Trong Tin Mừng theo thánh Luca, động từ LÀM được nhắc lại nhiều lần: “Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! mà anh em không làm điều Thầy dạy?” (Lc 6,46). “Người nghe mà không làm thì giống như người xây nhà không nền móng” (Lc 6,49). Trong cuộc đối thoại với một luật sĩ, Đức Giêsu đã bảo ông: “Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống” (Lc 10,28). Sau dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Ngài còn dặn ông: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37).

Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Đức Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó.

Chúng tôi phải làm gì đây? Câu hỏi này được nhắc lại ba lần trong đoạn Tin Mừng.

Những người đến với Gioan để chịu phép rửa đã không chỉ sám hối về quá khứ tội lỗi mà còn muốn tìm một hướng sống trong tương lai.

Hoán cải đích thực đòi thay đổi cách sống.

Ông Dakêu đã chia phân nửa tài sản cho người nghèo. Gioan mời gọi người có hai áo chia cho kẻ không có.

Hoán cải thực sự đòi phải trả giá vì nó đụng đến bản thân tôi ở chỗ sâu nhất. Chính vì thế, hoán cải là một ơn mà ta phải xin và can đảm đón nhận.

Mùa Vọng là thời gian hoán cải để chờ Chúa đến.

Nhiều bạn trẻ lo xét mình xưng tội, xưng tội để rồi bắt đầu một đời sống mới, vui tươi và quên mình, công bình và bác ái.

Như Phao-lô sau khi bị quật ngã trên đường về Đa-mát, chúng ta cũng muốn đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, tôi phải làm gì?” (Cv 22,10).

 

 

PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI BẰNG ĐỜI SỐNG PHẢN CHIẾU TIN MỪNG.

Lm. Ignatio Trần Ngà.

 

Sau khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi ăn năn sám hối, nhiều người tỏ ra phục thiện, sẵn sàng cải đổi nếp sống sai lạc của mình. Họ xin thánh Gioan những lời khuyên: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?”

Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những lời khuyên thiết thực.

Đối với người khá giả thì ngài khuyên họ hãy chia cơm xẻ áo: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” (Lc 3,11)

Đối với người thu thuế thì ngài dạy họ đừng bắt chẹt ai: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” (Lc 3,13)

Đối với người nắm quyền lực trong tay thì đừng ức hiếp dân lành và đừng tham nhũng : “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3,14)

Nói chung, các lời khuyên nêu trên đều khuyến khích mọi người thực hiện công lý, công bằng và bác ái.

Nhưng tiếc thay, những lời khuyên của Gioan Tẩy Giả trên đây cũng như những lời Chúa dạy trong Tin Mừng chưa được nhiều người đón nhận và đem ra thực hành nên nhân loại phải sống triền miên trong bất công và nghèo đói.

Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Phát Triển của Liên Hiệp Quốc năm 2009, hiện nay những người giàu nhất trên thế giới tuy chỉ chiếm 2% số người trưởng thành trên địa cầu nhưng lại sở hữu tới hơn một nửa của cải toàn thế giới; trong khi hơn một nửa dân số nghèo trên thế giới chỉ chiếm chưa đầy 1% của cải trên toàn trái đất nầy!

Còn theo báo cáo của FAO (Tổ Chức Lương Nông Thế Giới) ngày 14 tháng 10 năm 2009 thì hiện nay có đến 1.02 tỉ người, chiếm 1/6 dân số toàn cầu, đang lâm nạn đói. Số người đói đã lên đến mức kỷ lục!

Trong hoàn cảnh số người lâm nạn đói tăng lên nhiều chưa từng thấy và sự chênh lệch giàu nghèo đạt tới khoảng cách chưa từng có trong lịch sử loài người, thì việc chia cơm xẻ áo, thực thi công lý và công bằng mà Thiên Chúa mời gọi, qua miệng ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, là việc làm khẩn thiết hơn bao giờ hết, để đem lại ấm no cho mọi người, đem lại công bằng cho xã hội, đem lại hạnh phúc cho muôn dân.

Hơn ai hết, ki-tô hữu phải là người đầu tiên đáp lời mời gọi của Thiên Chúa và Hội Thánh để thực thi bác ái, công bình trong xã hội.

 

Một số người cho rằng đạo và đời là hai lãnh vực cách biệt, chẳng có liên hệ gì với nhau nên bên nào thì chuyên lo việc bên đó. Thực ra, hai lãnh vực nầy gắn bó với nhau mật thiết như xác với hồn, bởi vì khi tôn giáo đào tạo nên một tín hữu tốt thì xã hội có thêm một công dân tốt; khi người tín hữu sống công bằng bác ái với người chung quanh, là họ đang làm cho xã hội nên tốt đẹp, vì họ cũng là công dân trong xã hội. Chính khi sống theo những lời khuyên dạy của Tin Mừng, ki-tô hữu góp phần xây dựng và phát triển xã hội bằng chính đời sống của mình.

Vì thế, trong thư gửi cộng đồng dân Chúa dịp công bố năm thánh 2010, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI gửi cộng đồng dân Chúa: “Khi xây dựng đời sống mình trên nền tảng những giá trị Tin Mừng như bác ái, liêm chính và quý trọng công ích, anh chị em là những công dân tốt, tích cực tham gia vào việc xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Qua anh chị em, Giáo Hội đóng góp phần mình vào việc phát triển con người và xã hội cách toàn diện…” Nói tóm lại: bằng đời sống phản chiếu Tin Mừng, người giáo dân góp phần phát triển con người và xã hội.

 

* * *

Dù chỉ là một khối đất đá sù sì không có gì hấp dẫn nhưng mặt trăng trở nên cần thiết và mang vẻ đẹp tuyệt vời khi đón nhận ánh sáng mặt trời và phản chiếu ánh sáng đó soi chiếu nửa phần trái đất đang chìm trong bóng tối. Cuộc đời người ki-tô hữu dù có tầm thường, cũng trở nên hữu dụng và có giá trị cao khi biết đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa và phản chiếu ánh sáng Tin Mừng đó cho những người chung quanh.

 

 

 

 

Sự sám hối chân thành

Lm Jos. Tạ Duy Tuyền.

 

Người Việt Nam được coi là một dân tộc hiếu khách. Vì thế, khi khách đến nhà thì “không gà thì vịt” và cố gắng tiếp đón làm sao để “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Thực vậy, khi có khách đến thăm, người ta thường thăm dò ý muốn sở thích của vị khách để tiếp đãi cho chu đáo. Khách càng sang, càng cao qúy người ta càng chuẩn bị kỹ lưỡng từ trang trí nhà cửa, sân vườn đến các món ăn mà vị khách ưa thích. Cũng bởi sự hiếu khách đó, mà người Việt Nam thường tự trách mình thất lễ khi thiếu sự chuẩn bị mà khách lại đột xuất viếng thăm.

 

Cách đây hơn 2.000 năm người dân Palsetin cũng háo hức đón chờ một thượng khách đến viếng thăm. Một vị khách mà cả pho Cựu ước là bằng chứng sự trăn trở đợi chờ. Đó chính là Đấng Thiên Sai, Đấng Messia sẽ đến để thực hiện lời hứa cứu độ cho nhân trần. Hôm nay họ nghe Gioan rao giảng Đấng đó đã đến nhân trần. Đấng mà cha ông họ ngày đêm mong chờ mà chưa có diễm phúc gặp gỡ, nay quả là phúc đức cho họ được diện kiến Đấng Thiên sai. Họ tràn ngập niềm hân hoan. Họ chạy đến Gioan để tư vấn, xem phải làm gì để vui lòng Đấng Messia? Từ những người nông dân chất phác đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn đến các nhà thu thuế và quan quyền đều muốn có một động tác chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp Đấng Messia. Nhưng lạ thay, Gioan không bảo họ trang trí nhà cửa phố xá cho nguy nga lộng lẫy. Gioan không bảo họ chuẩn bị các món ăn đặc sản của dân tộc để thiết đãi Đấng Messia. Gioan đề nghị họ một cung cách sống để vui lòng Đấng Messia. Đối với đám đông dân chúng hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Đừng chồng chất thêm gánh nặng cho dân bằng sưu cao thuế nặng. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với binh lính, Gioan đề nghị hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.

Nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp giòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.

Hôm nay, Giáo hội cũng gợi lại hình ảnh đó để nhắc nhở con người thời nay. Chúa đã đến với chúng ta hôm nay qua tha nhân, qua các bí tích. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày cuối cùng của đời người dương gian, và Chúa sẽ đến trong uy nghi vinh hiển trong ngày quang lâm. Vậy có ai đó đã tự hỏi lòng mình: tôi phải làm gì để đón tiếp Chúa? Nếu chúng ta tin rằng Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, liệu rằng chúng ta có gì để dâng cho Chúa? Có lẽ Chúa không cần chúng ta xây nhà nguy nga lộng lẫy cho Chúa. Chúa cũng không cần chúng ta trải thảm lót đường cho Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta dâng cho Chúa tấm lòng thanh sạch không vương vấn tội nhơ. Một con tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Một tấm lòng muốn sửa đổi, muốn thăng tiến bản thân cho tốt hơn, cho đúng với giáo huấn và lề luật của Chúa.

 

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Khi Chúa giáng sinh, muôn loài đều tới mừng Chúa. Mỗi loài đều dâng cho Chúa chút quà. Chị bò cái dâng sữa, cậu khỉ biếu Chúa mấy trái cây nhỏ, chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa. Chúa hài đồng vui vẻ nhận tất cả.

Đang lúc các thú vật quây quần bên Chúa, thì chàng cáo xuất hiện. Các con vật đều ghét cáo, vì hắn gian manh quỉ quyệt. Chúng chận không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi không biết cáo định âm mưu gì. Cáo nói rằng, cáo đến dâng lễ vật cho Chúa, nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quì bên Chúa hài đồng chàng cáo thì thầm:

– Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa lòng quỷ quyệt của con!

Mọi con vật bỡ ngỡ:

– Dâng gì kỳ cục vậy?

Nhưng cáo vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành.

Có lẽ đó là món quà mà Chúa cần chúng ta dâng cho Chúa. Dâng lên Chúa chính tội lỗi, yếu đuối của mình. Dâng cho Chúa là hứa với Chúa từ nay sẽ thôi không theo đường cũ, quyết ăn ở ngay lành, sống công bình bác ái và thân ái với mọi người. Ước mong những ngày chuẩn bị mừng lễ giáng sinh với sự trang hoàng bên ngoài bằng hang đá, cây thông, đèn sao lấp lánh, mỗi người chúng ta cũng chuẩn bị một món quà từ tấm lòng sám hối ăn năn để từ trong sâu thẳm cõi lòng có thể rộn ràng lên câu hát “vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Amen.

 

 

 

VĨ ĐẠI CỦA GIOAN TẨY GIẢ

McCarthy.

 

Ngày kia, có một người thắp đèn kỳ lạ, tên là ông T. Ông là một người hoàn toàn đáng tin cậy và chính xác như một cái đồng hồ. Mỗi tối, khi trời vừa chập tối, thì các ngọn đèn dầu luôn luôn được thắp sáng lên. Bằng cách nào mà ông đoán biết được giờ giấc mà không một ai biết được, bởi vì ông không hề có đồng hồ.

 

Người ta thường nhìn ra cửa sổ đằng trước, khi ông đi lên đi xuống trên đường, để lại một vệt ánh sáng phía sau ông. Đối với tất cả mọi người, rõ ràng ông yêu mến công việc của mình. Ông sống chỉ vì một việc duy nhất: đốt lên những ngọn đèn. Cuộc sống của ông không phải là một cuộc sống dễ dàng, nhưng sáng rực một ý nghĩa.

Tất cả mọi người đều yêu quý ông, đặc biệt là các trẻ nhỏ. Khi bóng tối đến đe dọa kết thúc những trò chơi trên đường phố của chúng, thì ông T. đến, cùng với ngọn đèn, và chúng lại được tiếp tục chơi.

Điều gì làm cho ông T. trở nên lạ lùng đến thế? Rốt cuộc, có nhiều người yêu mến công việc của mình, và làm một cách trung thành. Tính cách vĩ đại của ông T. hệ tại ở sự kiện rằng ông bị mù lòa. Con người quá trung thành trong việc đem ánh sáng đến cho những người khác, nhưng lại không bao giờ nhìn thấy bản thân mình.

Cuối cùng, khi có đèn điện, và hiện nay, theo năm tháng, ông T. đã già yếu rồi, thì ông trở nên một người thừa. Cuộc sống của ông đột nhiên bị mất đi ý nghĩa. Ông cảm thấy mình vô dụng và không còn ai mong mỏi nữa. Thật đáng buồn. Những người đã từng quý mến ông, thì nay đã quên lãng ông. Ánh sáng mới vượt xa ánh sáng cũ quá nhiều, đến nỗi không còn ai tiếc nuối ánh sáng cũ nữa.

Ông T. nhắc nhở chúng ta về thánh Gioan Tẩy Giả. Tương tự như ông T., thánh Gioan Tẩy Giả đã làm việc cần cù, để mang đến cho mọi người ánh sáng của bản thân ngài. Ngài đã một nhân vật nổi tiếng, thống trị cả một vùng. Nhưng ngài luôn ý thức rằng có một ánh sáng vĩ đại hơn sắp đến, một ánh sáng mà bản thân ngài không được tiền định để đi vào. Khi ánh sáng đó xuất hiện qua con người của Đức Giêsu, thì ngài đứng sang một bên, để dọn đường cho Đức Giêsu. Đó là một tính cách vĩ đại.

Không một người nào đến, để làm nổi bật hoặc đạt được sự nổi tiếng cho bản thân mình. Bạn sẽ luôn luôn nhận thấy rằng ở sau hậu trường, có một người tạo điều kiện thuận lợi. Công việc của người đó là giúp đỡ, hướng dẫn và khích lệ bạn. Nói cách khác, để chuẩn bị đường cho bạn. Khi bạn đạt được sự nổi tiếng thì không ai nhìn đến người dọn đường nữa, và thường bị rơi vào quên lãng.

 

Để dọn đường, hoặc thậm chí chỉ để dọn phòng cho người khác, thì đòi hỏi phải có tinh thần khiêm tốn và quảng đại. Thật vậy, công việc này đòi hỏi một kiểu chết đi về bản thân mình. Khi rút lui khỏi một chức vụ cao, là chết đi một chút, thậm chí lại còn hơn cả một chút nữa. Một số người làm hư việc, khi nắm quyền lực trong một thời gian quá lâu dài.

 

Các bậc cha mẹ luôn dành ra những năm tháng tốt đẹp nhất cuộc đời mình, để chuẩn bị đường cho những đứa con của họ, theo ý nghĩa là mở lối cho chúng đi vào cuộc đời. Nhưng đến một thời điểm nào đó, cha mẹ phải rút lui, để con cái họ có thể tự đi trên đôi chân của chúng. Một khi đã đem cuộc sống đến cho con cái, thì cha mẹ cũng phải cho phép chúng được sống cuộc sống đó.

Tất cả chúng ta đều có khuynh hướng thích được nổi tiếng. Có lẽ một cách đầy bất ngờ, chúng ta thường thống trị người khác, và loại bỏ họ vào bóng tối. Chúng ta phải cố gắng chiếu tỏa hết khả năng của mình ra, trong khi vẫn phải cẩn thận, để không ngăn cản đường đi của người khác. Và chúng ta cũng phải ý thức về món nợ đối với người khác, đó là những người đã chuẩn bị đường cho chúng ta.

 

Vui lên anh em.

 

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Gần đến lễ Giáng Sinh, người ta thấy hình ảnh ông già Noel đủ cỡ xuất hiện khắp nơi. Các em thắc mắc không biết ông già Noel là ai? Và có thật không?

Tháng 9 năm 1987, một bé gái tên là Virginia đã viết cho một tờ báo Công giáo Hoa Kỳ để hỏi về ông già Noel. Câu hỏi của cô bé là: Ông già Noel có thật không?

Vài ngày sau, trên mục quan điểm của tờ báo, người ta đọc được câu trả lời của ông chủ nhiệm kiêm chủ bút như sau: “Virginia yêu dấu của bác. Điều trước tiên bác muốn nói với cháu là: các bạn của cháu thật là sai lầm khi bảo rằng không có ông già Noel. Các bạn của cháu đã bị tiêm nhiễm bởi trào lưu hoài nghi. Họ nghĩ rằng chỉ có thể tin được những gì họ thấy tận mắt. Họ nghĩ rằng không gì có thể có được nếu trí khôn nhỏ bé của họ không hiểu được.

Virginia ạ! Ông già Noel có thực. Ông có thực cũng như tình yêu và lòng quảng đại, nhờ đó cuộc sống của cháu sẽ trở thành vui tươi và xinh đẹp. Bé ơi, nếu không có ông già Noel thì thế giới của chúng ta sẽ như thế nào?…”.

Được biết ông già Noel là một nhân vật lịch sử có thật. Người Pháp gọi là Cha Noel (Le père Noel). Người Anh gọi trực tiếp là Thánh Nicola (Santa Claus). Thánh Giám mục Nicola nầy được mừng lễ ngày 6/12 mỗi năm, trước lễ Giáng Sinh gần 20 ngày. Người Pháp thân mật gọi ngài là Cha Noel, vì ngài liên hệ nhiều với lễ Noel, nhất là với trẻ em. Các em mộ mến ngài như một ông già Noel. Các em được kể rằng nếu chúng ngoan, ông già Noel sẽ chui vào lò sưởi, vào phòng của chúng, bỏ bánh kẹo vào những chiếc giày các em để ở bên lò sưởi hay bỏ vào những chiếc vớ các em treo ở chân giường…

 

Ông già Noel sẽ tiếp tục làm cho tâm hồn trẻ thơ được tràn đầy hoan lạc. Cũng vậy, lời Chúa của Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vui lên. Không phải vui vì có ông già Noel, vì quà tặng, vì những thiệp chúc mừng, vì đèn sao, máng cỏ… Những niềm vui hời hợt bên ngoài ấy sẽ qua mau nhưng niềm vui đích thực sẽ còn mãi, cả trong lúc lo âu, thất bại. Niềm vui đó bén rễ sâu trong lời cầu nguyện và đó là dấu chỉ của người Kitô hữu.

“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa!”

Qua bài đọc thứ nhất, Tiên tri Sôphônia cất lên những tiếng kêu đầy lạc quan: “Hỡi Israel, hãy hân hoan. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nhảy mừng. Chúa đã rút lại lời kết án. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi sẽ không còn sợ tai hoạ nữa”.

Thưa anh chị em,

Lời đó có an ủi được chúng ta hay không, khi mỗi ngày tai chúng ta nghe sang sảng từ trong đài phát thanh những tin tức bi đát của một thế giới đang còn nhiều điểm nóng chiến tranh, còn những cuộc tranh chấp vì bất công, vì đói khổ; khi mắt chúng ta còn thấy nhan nhản những chiếc khăn sô chít trên đầu, những đàn con mất cha mất mẹ; còn chứng kiến biết bao bệnh nhân trong các bệnh viện rên la đau đớn…

Khi nghe, khi nhìn các điều đó, có phải chúng ta là người ngoài cuộc không? Chúng ta thấy hoà bình và hạnh phúc trộn lẫn những mối nguy đang đe doạ chúng ta. Trong thực tế, chúng ta vẫn lo lắng và đau khổ, mà chính những cơn bão táp trong lòng, những cái mâu thuẫn giữa con tim, giữa lý trí, làm chúng ta xao xuyến băn khoăn. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều đó trong bản thân và ngài đã thốt ra những lời chân thành của một con người chân đạp đất: “Sự lành tôi muốn thì tôi không làm; còn sự không muốn thì tôi lại làm”.

Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể mỉm cười trong đau khổ và vui tươi trong thử thách, khi chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện trong đau khổ của chúng ta. Niềm xác tín này làm nảy sinh và gia tăng niềm hy vọng hân hoan. Nhưng làm sao để nhận thấy “Đấng đang đến” gần kề? Làm thế nào để nhận ra “Đấng đang ở giữa ngươi?” Gioan Tẩy Giả đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho những người hỏi ông: “Chúng ta phải làm gì?” – “Ai có hai áo thì hãy chia cho người không có. Ai có cái ăn thì cũng làm như vậy” – “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định” – “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta. Hãy an phận với số lương của mình”. Nói chung, Gioan đưa ra những hướng đi cụ thể: bác ái, chia sẻ, chấp nhận thực tại, sống hiền hoà, công bình, chính trực trong các mối tương quan xã hội. Sống như vậy là chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế, là đặt mình vào trong hàng ngũ những kẻ bé mọn của Thiên Chúa. Chính những người bé mọn này mới cảm thấy vui mừng và hy vọng, vì nhận ra Chúa sắp đến, đang đến… Ngài sẽ thay đổi tất cả, đổi mới toàn thế giới và xã hội.

 

Chính vì thế mà trong Mùa Vọng, Chúa Nhật III bao giờ cũng nổi bật nét hân hoan: “Anh em hãy vui lên!”. Hãy hoan hỉ vui mừng vì Chúa giải thoát đã đến và đang ở với chúng ta. Ngài đang thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, đang quy tụ muôn nước thành một dân một nước: Dân Chúa, Nước Trời. Không phải bằng vũ lực khống chế, nhưng bằng sự giải thoát loài người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, ích kỷ, nhỏ nhen, bất chính; bằng cách sống liên đới yêu thương, chia cơm sẻ áo; bằng cách sống công bình, chính trực và chan hoà với mọi người.

Anh chị em thân mến,

Có phải là điều viễn vông không, khi chúng ta nhắc lại lời mời gọi của Phụng vụ: “Anh em hãy vui lên!”. Vui làm sao được khi đông đảo dân chúng đang nghèo đói, đau khổ? Phải chăng là để nhạo cười những người này mà Giáo Hội cứ lập lại những lời cũ rích, không gắn liền với cuộc sống thực tế lúc này? Bởi vì, hơn bao giờ hết, vấn đề cơm áo, phát triển, quyền con người đang là những vấn đề nóng bỏng trên hành tinh này cũng như trong xã hội hiện tại của chúng ta.

Lời Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước đều cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng của những kẻ tin, đâu là lý do hân hoan của những người bé nhỏ của Thiên Chúa: Thiên Chúa Cứu Độ, đó là tất cả động lực của cuộc sống và cuộc chiến đầu của người tin theo Chúa Kitô. Thiên Chúa nhập thể và cứu độ là căn bản để giải quyết mọi vấn đề: Thiên Chúa nhập thể để chúng ta được sống như con cái, nghĩa là, như những con người tự do và trách nhiệm, những con người tự nguyện cống hiến cho anh em, cho xã hội. Vì vậy, trong bất cứ một hoàn cảnh bế tắc khó khăn nào, người có lòng tin rằng mọi phấn đấu của mình và của loài người đều mang một ý nghĩa cứu độ: ý nghĩa dọn đường cho Nước Trời, cho Đức Giêsu của Thiên Chúa ngự đến.

Muốn hoà mình vào niềm vui của Phụng vụ, người Kitô hữu và Giáo Hội không thể không liên đới với những người đang khao khát đổi mới, đang khát vọng phẩm giá con người. Hơn thế nữa, Giáo Hội Chúa Kitô không thể đứng ngoài những cuộc đấu tranh cho hoà bình, bình đẳng, tôn trọng con người, phát triển xã hội mà loài người đang theo đuổi. Sống Mùa Vọng là sống liên đới với người nghèo, là sống công bình với tha nhân, là sống hoà giải với hết mọi người, là sống yêu thương, an bình trong mọi hoàn cảnh, là đấu tranh cho tình huynh đệ và khơi lên niềm vui cho những ai đang chán nản, thất vọng chán chường vì không có niềm tin, vì đã mất niềm tin nơi con người, nơi xã hội và cả nơi Thiên Chúa nữa.

Vui lên anh em! Hãy vui lên trong niềm vui của Chúa!

 

 

NHỮNG LỜI GIẢNG CỦA VỊ TIỀN HÔ

  1. Gutzwiller.

 

Những lời khuyến cáo của Gioan, hoàn toàn phù hợp với sứ mạng của ông trong việc sửa dọn đường cho Chúa sắp đến. Những lời giảng đó bao gồm hai giáo huấn:

 

  1. Sửa dọn.

Như các vị ngôn sứ xưa, Gioan coi nước cứu độ như quà tặng ban một lần hay tất cả. Ý niệm về một Đấng Messia đến hai lần, lần đầu là lần sửa soạn, rồi trong ngày thế mạt là lần quyết định để hoàn tất nước Thiên Chúa, còn là cái gì xa lạ với Ngài. Vì thế Ngài đã nhìn Đấng Messia như vị Thẩm phán sẽ đến. Những lời cảnh cáo đánh dấu đặc tính quan hệ và cấp bách của cuộc sửa soạn được đòi hỏi ở đây.

‘Cuộc thẩm phán trong thịnh nộ’ sẽ đến và chẳng ai tránh được. Cái rìu đã được đặt ở gốc cây, người ta sẽ chặt những cây cằn cỗi và gỗ của nó sẽ bị vứt vào lửa. Cây nào cũng phải sai trái: đối với Israel hoa quả này là thống hối, thay đổi tâm trí, nhận biết tội riêng của mình. Nhưng những người Do thái chưa sửa soạn đủ: họ cậy mình thuộc đòng dõi huyết tộc của Abraham, và vẻ bên ngoài thuộc về dân Thiên Chúa. Thực ra, đó là tình trạng tâm trí hoàn toàn sai lầm, vì trước Đấng có thể biến hòn đá thành con cháu Abraham, thì nó chẳng có nghĩa gì.

Thay vì liên hệ huyết tộc, sẽ xuất hiện liên hệ thiêng liêng. Thay vì thuộc về dáng vẻ bên ngoài, là thuộc về bên trong, thuộc về Thiên Chúa.

Trong phạm vi tôn giáo, ai chỉ liên kết với yếu tố bên ngoài, với cơ chế hữu hình của Giáo Hội, với một chức vụ hay với một nhiệm sở chính thức hoặc với những công tác bên ngoài, với những hoạt động cá nhân mà chẳng thêm vào đó: những tình cảm, sám hối, sự nhận thức về tình trạng tội lỗi của mình và lòng ao ước chân thành một cuộc hoán cải sâu xa, thì đó chưa thể được kể là con cháu Abraham, huống nữa là con cái Thiên Chúa. Họ thuộc về ‘loài rắn độc’. Vậy ra họ là con ma quỉ chứ không phải con Chúa.

Sự cải thiện thực sự kéo theo những hoa quả hữu hiệu về sám hối, hẳn sẽ biểu lộ rõ khi con người bắt đầu làm những việc lành cách vô vụ lợi. ‘Kẻ có hai áo, hãy chia cho người không có, và kẻ có của ăn, cũng hãy làm như vậy’.

Thời nào cũng vậy, các ngôn sứ, vẫn đặt ưu tiên phong hoá trên lễ nghi, hay ít là đòi hỏi phải có những chuẩn bị về luân lý và hành vi nhân đức như yếu tố bất khả kháng của các cuộc lễ. Chính vị tẩy giả cũng đòi phải việc từ thiện không tính toán, đòi phải giúp nhau, mở rộng bàn tay như dấu chỉ của một tâm hồn quảng đại.

 

Hoa quả của sám hối là đức ái hoạt động phát xuất từ sự hoán cỉa nội tâm. Cái nhìn hướng lên Thiên Chúa phải làm dội lại sâu xa hơn cái nhìn hướng về tha nhân; quay về với Thiên Chúa mà không biến đổi những liên hệ với đồng loại thì chỉ là một việc đạo đức giả.

 

Bản văn Tin mừng còn đặc biệt nhắc tới những người thu thuế và lính tráng. Đối với dân Israel, những phần tử của hai hạng người này coi như đã hỏng vì họ tiếp xúc với dân ngoại (tự bản chất là dơ dáy) và vì nghề nghiệp của họ mang đến những hành vi bất nhân và làm giàu cách bất chính. Vị tẩy giả nghĩ khác. Ngài quảng đại đối với họ, chỉ đòi hỏi họ những cái nhỏ bé nhất: với những người thu thuế, Ngài nói: “Chớ đòi gì quá mức đã định cho các anh’. Họ phải giữ tiết độ đúng mức. Vượt quá kích thước đã định mới là điều không hợp với lòng đạo đức chứ không phải vì nghề nghiệp. Những người lính đã nhận đươc một mệnh lệnh tương tự: ‘đừng xách nhiễu, đừng vu khống cho ai, hãy bằng lòng với số lương bổng của mình’. Đó lại là một sự khuyến khích giữ giới hạn của mình. Binh nghiệp tự nó đâu phải là xấu, mà cũng chẳng có gì là đáng chê trách khi phục vụ cho thế quyền. Nhưng chắc chắn phải tố giác việc dùng sức mạnh theo sở thích, sử dụng quyền hành và khí giới cách đáng trách và sự bất mãn, là nguồn mọi tham vọng.

 

  1. Đức Messia đến.

Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói: ‘không phải ta đâu, mà là Đấng khác’. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân, nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.

Cả hai phép rửa cũng khác nhau như vậy. ‘Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa’. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào tận đáy lòng và biến đổi tất cả.

Để hoàn tất lời giảng, Gioan còn nhấn mạnh tới việc hệ trọng của giờ đã đến. Phải có vị trí nào với Chúa Kitô. Phải quyết định, vì Đức Kitô sẽ đến thi hành một cuộc phân cách. Ngài sẽ sảy sạch lúa sân Ngài, thu lúa vào lẫm, và đốt hết trấu.

Sứ điệp của Gioan đã bắt đầu bằng những lời giảng về phán xét thì cũng bằng những lời đó Ngài kết thúc. Người ta, một khi bị gọi trình toà, hẳn phải nhận thức được tầm quan trọng của lúc đó. Họ còn được tuỳ ý sắp xếp công việc, để có thể tự biện hộ cho mình. Nhưng ở đây đã thực cấp bách. Sự phân cách và phán xét đã đang xảy ra rồi: sau cùng, trình thuật Tin mừng đã ám chỉ việc này.

Thực ra dân chúng có đón nhận ‘Tin mừng’ mà họ biết nhận ra dưới những lời lẽ long trọng và có tính cách đe doạ đó. Tin mừng đã bắt đầu. Nhưng nó lại là khởi sự của một chống đối. Hêrôđê mà liên hệ tội lỗi với chị dâu bị lời Chúa cảnh cáo đã lợi dụng quyền hành của mình để bắt giam vị tẩy giả. Sự phân cách các tâm trí bắt đầu, và cùng với sự phân cách đó là sự phán xét.

 

 

 

 

 

 

Cho Chúa một cơ hội.

 

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)

 

Cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người chưa có niềm tin như sau:

– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?

– Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.

– Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra trong quốc gia nào?

– Rất tiếc là tôi đã quên mất chi tiết này.

– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?

– Tôi cũng nhớ rõ nên chẳng dám nói.

– Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?

– Tôi không biết!

– Quả thật, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!

– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần lút đầu ngập cổ, gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại hạnh phúc, các con tôi trông ngóng, chờ tôi về sau giờ tan ca. Những điều này không ai khác hơn, chính là Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.

 

Khi lãnh phép rửa sám hối của Gioan, dân chúng hỏi ông: “Chúng tôi phải làm gì?”. Qua câu hỏi ấy, chúng ta thấy sám hối mang chiều kích cộng đoàn, sẵn sàng đổi mới bằng hành động cụ thể.

Các thánh thường nói: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Đó là một thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa. Có được tâm tình ấy quả không dễ dàng. Nhưng nói được như Đức Maria mới thực là cao quý: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Ngài nói”.

Người tân tòng trong câu chuyện trên đây, sau khi được đổi mới hoàn toàn, ông đã nói: “Những điều này không ai khác hơn, chính là Đức Kitô đã làm cho tôi”.

Như vậy:

Sám hối không chỉ là quay trở về với quá khứ, mà còn hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.

Sám hối không chỉ có tính cách cá nhân, mà còn mang tính liên đới trong cộng đoàn.

Sám hối không chỉ là một cảm xúc mông lung, nhưng chính là một quyết tâm hành động.

Sám hối không chỉ là hướng tới đời sống thánh thiện, mà là trở về với một Đấng thánh: Đức Giêsu Kitô.

Vì thế, sám hối chính là dành cho Chúa Kitô cơ hội để Người thanh tẩy tâm can, thay đổi con người, nhất là để Người biến những tâm tình và ước muốn của chúng ta nên giống những tâm tình và ước muốn của Người.

Thay vì sám hối bên ngoài, Chúa Kitô muốn chúng ta thực sự hướng lòng về Người.

Thay vì kiêu căng tự mãn, Chúa Kitô muốn chúng ta thực sự khiêm tốn để nên giống Người.

Thay vì nô lệ cho của cải, tiền bạc, Chúa Kitô muốn chúng ta hãy ra khỏi nỗi bận tâm về mình mà nhường cơm sẻ áo cho anh em.

Mùa vọng là mùa của hy vọng. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Cho dù con người có sa ngã, phản bội, Thiên Chúa vẫn theo đuổi chương trình cứu độ của Người. Cho dù thấp hèn tội lỗi, con người vẫn mang hình ảnh cao đẹp của Thiên Chúa, nên mỗi người đều được Thiên Chúa tin tưởng, yêu thương. Mùa vọng mời gọi chúng ta sám hối, đồng thời cũng kêu gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác và hy vọng nơi Người.

 

Lạy Chúa Giêsu, sám hối là dọn đường cho Chúa đến, sám hối cũng là dọn lối để đến với tha nhân.

 

Xin dạy chúng con biết bày tỏ lòng sám hối bằng cách mềm mại để Chúa uốn nắn, và quyết tâm sống công bình bác ái với anh em. Amen.

 

 

.

 

 

 

 

PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC TRONG LỜI RAO GIẢNG CỦA GIOAN

Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.

 

Phương diện đạo đức trong lời rao giảng của Gioan (cc. 10-14) được trình bày dưới hình thức đối thoại. Cả ba lần cũng một câu hỏi được lặp lại: “Phải làm gì?”. Đâu là những thay đổi đời sống cụ thể sẽ diễn tả ra bên ngoài sự hối cải sâu xa? Lời đáp của diễn giả đáng lưu ý ở hai điểm. Một đàng nó bao gồm những hành vi xã hội của con người và không đòi hỏi hy lễ đền tội, cũng như thực hành khổ chế; đàng khác, phải giúp đỡ những người túng thiếu, phải trung thực và công bình trong nghề nghiệp của mình. Đó là những đòi hỏi vượt quá luật Môsê và bắt buộc tất cả mọi người, người không cắt bì cũng như người Do Thái. Sự cần thiết phải hoán cải có tính cánh phổ phát, cũng như ơn cứu độ được trao ban (x. 6); điều có ý nghĩa là chính đám đông hiện diện trong hoạt cảnh này.

Cũng cần ghi chú thêm là những đòi hỏi này không được đặc biệt tô điểm lời rao giảng có tính cánh chung ở các câu 7-9. Gioan không loan báo gì về sự đảo lộn các cơ cấu xã hội (so sánh với Chúa Giesu ở Lc 6,20-26); ông không đòi hỏi các người thu thuế đoạn tuyệt với người Rôma xâm lược mà họ đang cộng tác, cũng không bảo các người lính Do Thái phục vụ trong đạo binh của Hêrôđê phải đào ngũ. Ông không kêu mời ai bỏ tất cả mọi sự để theo ông; điều mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi một bậc vị vọng ở La 18,22 sẽ triệt để hơn! Đối với Luca, việc chia sẻ trở lại điều này. Ở đây chỉ cần để ý là ông Giakêu – người thu thuế (Lc 19,8) hứa với Chúa Giêsu sẽ đền bù những thiệt hại cho người khác – chính là điều Gioan đòi hỏi những người anh em mình – và dâng tặng cho người nghèo khó phân nửa gia tài của mình – đó là lời đáp của Gioan cho đám đông nghĩa là cho tất cả mọi người.

 

Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức…

Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.

Cuối cùng hai động từ tiêu biểu cho diễn từ của vị Tẩy Giả –khuyến dụ– đó sẽ là một hoạt động đặc biệt của các thừa sai Kitô giáo, Cv 2,40; 15,22 – và nhất là loan báo Tin Mừng/Phúc Âm hóa. Như thế, trước cặp mắt của Luca, vị Tiền hô khai mạc việc rao giảng trong thời đại cuối cùng. Nhưng việc Phúc Âm hóa này, về mặt hình thức, không có nội dung, trong khi mà ở thời đại Kitô, Tin Mừng thường quen được xác định rõ: Tin Mừng về Vương Quốc (Lc 4,43; 8,1; 16,16; Cv 8,12) hoặc, sau Phục Sinh, Tin Mừng về Chúa Giêsu như Đấng Kitô và Đức Chúa (Cv 5,42; 11,20). Khi không nói Tin Mừng về Vương Quốc qua môi miệng của vị Tiền hô, Luca chứng tỏ rằng Gioan rao giảng khác với Chúa Giêsu; ông dẫn vào kỷ nguyên mới, không thuộc về lĩnh vực của Chúa Giêsu. Và nếu không có vấn đề đảo lộn các giá trị trong chương trình của vị Tẩy Giả, chính bởi vì việc đảo lộn này được gắn liền cách nội tại với việc Thiên Chúa đến.

 

 

 

 

Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”

Noel Quesson.

 

Gioan Tẩy giả “Rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”. Chúng ta đã đọc như thế trong Chúa nhật trước. Đám đông người Palestine thời Đức Giêsu gồm có những nông dân, đơn giản và thực tế; họ muốn sống phù hợp với phép rửa của họ. “Chúng tôi phải thay đổi những gì trong cuộc sống? Chúng tôi phải làm gì?”.

 

Chúng ta đã nhận phép rửa để tha tội trong tình trạng vô ý thức của thời thơ trẻ. Nhưng suốt cuộc đời ý thức trưởng thành, chúng ta phải sống lại “dấu chỉ” này, bí tích hoán cải này. Và chúng ta biết rằng, bí tích rửa tội đúng ra không thể tái diễn được nữa, chúng ta có thể sử dụng điều mà thần học truyền thống gọi là “phép rửa thứ hai”; đó là “bí tích sám hối” mà chúng ta chuẩn bị nhận lãnh để chúng ta cũng đón tiếp Đấng sẽ đến.

Cũng như đám đông Palestine, chúng ta không thể thỏa mãn với những lời nói suông với những nghi lễ. Chúng ta cần phải nhiệt tình đặt câu hỏi với Chúa: “Lạy Chúa, con phải làm gì để trở thành Kitô hữu?”.

Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”

Lời rao giảng của Gioan Tẩy giả là rõ ràng, chính xác và cần thực hiện ngay không được chậm trễ. Nó không có gì thuộc phạm vi trí thức hay khó hiểu cả, chính trong cái bình thường nhất hay tầm thường nhất của cuộc sống hằng ngày (ăn, mặc…) mà sự “hoán cải” qua thân xác, sự quay lại của tâm hồn gọi là “métadola” cần được thực hiện.

Để xét xem những cách tuyên xưng đức tin của bạn có đúng hay không, bạn không nên kiểm tra tính xác thực có vẻ lý thuyết của chúng trong sách vở… nhưng tốt hơn hãy nhìn vô tủ áo, tủ chứa đồ ăn, những ngăn kéo và trương mục ngân hàng của bạn. Hãy chia sẻ – Hãy cho một nửa đi- Lạy Chúa, Chúa yêu cầu con những gì?

Chúng con nhận thấy rõ Luca người loan báo Tin Mừng của Chúa sẽ nêu gương cho chúng con qua cử chỉ điên rồ của tên vô lại Da-kêu trưởng ban thu thuế thành Giêrikhô: “Tôi cho người nghèo phân nửa tài sản của tôi” (Lc 19,9). Luca còn kể lại rằng, chính Đức Giêsu đã bảo những người giàu có đương thời sống, chia sẻ, thay vì quá lo lắng đến sự “trong sạch” của họ (Lc 11,41). Luca cũng cống hiến cho chúng ta gương mẫu của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu: “Họ để mọi sự làm của chung” (Cv 2,44 – 4,32-35). Còn chúng ta thì sao?

Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”

Từ những đám đông này, Luca rút ra được hai loại người: thu thuế và cảnh sát. Đó là những người bị người ta ghét nhất thời đó, là những người ít tư cách nhất để đón tiếp Đức Giêsu, những người sống ngoài xã hội và bị khinh bỉ, những người tội lỗi nhất, những hạng người “đểu cáng”.

Ở đây chúng ta cũng nhận ra rằng Tin Mừng theo Thánh Luca sẽ cho chúng ta thấy Đức Giêsu “dùng bữa nơi nhà những người tội lỗi” (Lc 5,27-30). Làm cho những người công chính rất bất bình Đức Giêsu, “ngụ tại nhà người tội lỗi” (Cl 19,7) làm cho những “người đàng hoàng” phải bực bội. Đức Giêsu nói rằng Người đến không phải vì những người công chính (Lc 5,32).

 

Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (Lc 3,6) cả những người thu thuế và những binh lính, cả những người tội lỗi, và cả tôi nữa. Lạy Chúa, Tạ ơn Chúa về lòng từ bi của Chúa.

Đối với những người thu thuế và cảnh sát của quân đội chiếm đóng, Gioan Tẩy giả không yêu cầu họ đổi nghề, nhưng chỉ cần có cung cách sống mới, tôn trọng công lý, không lạm dụng sức mạnh mình có trong tay, bằng lòng với những gì mà quyền lợi và luật pháp đã quy định. Tất cả những lời khuyên trên đây thuộc lãnh vực nghề nghiệp. Chúng nhằm đến những tội lỗi, mà người thu thuế và binh lính thời bấy giờ thường hay vấp phạm: làm giàu bằng cách lợi dụng tư thế bất khả xâm phạm do nghề nghiệp của mình, lợi dụng thế mạnh nhất của mình đang nắm giữ.

Còn tôi thì sao? Tôi thường phạm những tội nào do nghề nghiệp, địa vị của tôi?

Tội của linh mục? Của giáo sư? Của nhân viên văn phòng? Của cô y tá? Của y sĩ? Của công chức? Của chủ xí nghiệp? Của người thợ ăn lương? Của người buôn bán? Của con cái? Của cha mẹ? Của nữ tu sĩ? Xã hội đã đổi mới biết bao, nếu tất cả những người được rửa tội đều cử hành một “phụng vụ sám hối” đích thực.

Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?

Trình thuật của Luca có thể dừng ở đó. Nhu cầu “hoán cải” có thể dừng lại ở phương diện nhân bản, xã hội và luân lý. Thế nhưng, đám đông lại chờ đợi một cái gì khác.

Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!

Ở đây Luca đổi từ ngữ những “đám đông” (tiếng Hy Lạp là ochloi) bây giờ trở thành một “dân tộc” (tiếng Hy Lạp là laos). Khối dân chúng nặc danh đạt được một phẩm giá mới, nhờ tự đặt ra cho mình một câu hỏi: họ không chỉ đợi một cái gì đó nữa, mà là một Đấng nào đó… Khát vọng căn bản của họ, là một ước muốn thầm kín, nằm sâu trong lòng họ, mà họ không biết diễn tả hay không dám diễn tả. Biết bao người ngày nay cũng như thời bấy giờ không biết “gọi tên Đấng – mà họ mong đợi trong lòng”. Có một Đấng Cứu chuộc hay không? Chúng ta có thể trông cậy ở một Đấng Mêsia, một Đấng Thiên Chúa sai đến để giải thoát tận căn những khổ đau của chúng ta không?

Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.

Bề ngoài, người ta không nghe thấy họ đặt câu hỏi cách rõ ràng, nhưng Gioan Tẩy giả, do một thứ ân sủng ngôn sứ, đã đọc thấy trong lòng họ. Tôi có biết lắng nghe những gì thầm kín trong lòng các bạn đồng nghiệp, người lân cận và bạn bè của tôi không? Từ những vấn đề thuộc nhân quyền, tôi có đi đến chỗ nhìn nhận sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người đã mời họ mở tủ áo, mở tủ đồ ăn của họ. Bây giờ Người mời họ mở lòng họ ra để tiếp gặp một Đấng đang tiến đến phía họ. Hãy lắng nghe! Lắng nghe. Những bước chân của Chúa đang đến với bạn đó.

 

Đối với Gioan, không chỉ có những diễn viên hiện diện trên sân khấu: đám đông, người thu thuế, binh lính, v.v… Nhưng có một diễn viên chính còn đang ẩn nấp. Còn đối với tôi thì sao?

Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.

Đây chính là trung tâm của trình thuật Tin Mừng: Sự can thiệp cần thiết của Thiên Chúa. Hoán cải có thể là một hành vi không thường dễ dàng. Gioan Tẩy giả chỉ đòi hỏi những việc tầm thường. Các bạn hãy thử đi? Những điều Thiên Chúa đòi hỏi, dù có nhiều dạng thức nhưng đều là những gì khó có thể thực hiện: “Hoán cải”, “trở lại”, đổi đời đều khó thực hiện, nếu con người chỉ dùng sức riêng của mình. Cần phải có một hành vi của Thiên Chúa: Mỗi bí tích là một hành vi của Thiên Chúa, bằng và hơn một hành vi của con người.

Để mô tả tác động của Thiên Chúa, Gioan Tẩy giả dùng ba hình ảnh: Sự dìm xuống nước, gió và lửa. Trong tiếng Aramên cũng như trong tiếng Do Thái, cùng một từ là “ruah” có nghĩa vừa là “gió” vừa là “tinh thần”. Lối chơi chữ này muốn cho ta hiểu rằng, Thần khí của Thiên Chúa sẽ lay chuyển chúng ta như một cơn gió bão, một cơn bão táp mà ta bị “nhận chìm”, bị “dìm sâu” trong đó. Và Thần Khí của Thiên Chúa cũng như một ngọn lửa sẽ đốt cháy và thiêu hủy những nhơ bẩn của ta. Quả nhiên, khi Luca mô tả phép rửa trong Thánh Thần, Đấng “hoán cải” các tông đồ, thì trong ngày lễ Ngũ Tuần, sự kiện đó sẽ diễn ra qua một “tiếng gió mạnh” và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2,2-3).

Để giúp bạn tưởng tượng ra bí tích sám hối ngày Giáng sinh (phép rửa thứ hai), bạn hãy thử coi bạn như đang ở trong sức thiêu đốt của một cơn bão lửa… sẽ đổi mới bạn. Ôi, sự thiêu đốt đầy hạnh phúc của Thần Khí Thiên Chúa! Chúng ta có khuynh hướng biến những “chất nổ” Tin Mừng thành những thứ “kẹo bánh” dịu ngọt, tuy nhiên, đâu có hoàn toàn giống như thế!

Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”

Ở đây đúng là đang nói về Đức Giêsu: Người đến, tay cầm “nia” như vị thẩm phán ngày cánh chung để thu dọn và quét sạch một lần cuối cùng. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một người rê thóc trên sân phơi của anh ta chưa? Vào một ngày có gió lớn, anh ta đứng thẳng, tay cầm chiếc nia lớn chứa thóc lẫn lộn với trấu và bụi bặm… rồi anh ta đổ xuống. Lúc đó, gió sẽ tách rời hạt nặng hơn khiến chúng rơi thẳng xuống, còn rơm trấu thì gió thổi đi xa. Người ta đem lúa vào vựa người ta đốt rơm trong lửa.

Chúng ta chớ lừa gạt chính mình. Chúng ta cũng không thể lừa gạt được Thiên Chúa. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy những gì có giá trị, có trọng lượng trong cuộc sống của mình, và những gì không có giá trị trong lòng dạ con người: Có bao nhiêu thóc? hay chỉ là rơm rác?

Mong sao cho “gió và lửa” của Thần Khí ngay từ bây giờ hãy làm ra sự thật. Nhờ “phép rửa thứ hai” tôi lãnh nhận, nhờ “hành động của Thiên Chúa”, tôi sẽ cố gắng làm nên sự thật, để chọn lựa trong cuộc sống của tôi, giữa ích kỷ và tình thương, giữa đàn áp và công lý, giữa tính ích kỷ làm nhơ bẩn tình yêu của tôi và tình yêu trong sự trong sạch của nó, giữa thái độ thực sự ngóng đợi Thiên Chúa và thái độ lãnh đạm buồn thảm đầy duy vật.

Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.

Sự phán xét này không phải là những điều khủng khiếp đáng sợ, mà là một “Tin Mừng”. Chúa phán: “Không đâu, sự ác sẽ không tồn tại luôn mãi. Ta đã cầm nia rồi đấy”. Tạ ơn Chúa.

 

Thích, theo dõi và chia sẻ!


Các tin mới cập nhật:

Lời hay ý đẹp

HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ GÒ VẤP

523A  Lê Đức Thọ, P.16, Q. Gò Vấp, Tp HCM
ĐT: 028 38941492
Email : vanphongnhamemtggv@gmail.com
Web: https://hdmenthanhgiagovap.info

RSS
YouTube
YouTube