Tiếp theo sau là dấu chân rao giảng của các linh mục dòng Đaminh: Cha Gaspar Da Santa Cruz tại Hà Tiên năm 1550, Cha Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte tại Quảng Nam năm 1588, và Cha Bartôlômêô Ruiz dòng Phanxicô năm 1583.
Đặc biệt là việc gia nhập đạo của công chúa Mai Hoa (Maria Flora) năm 1591, tại Thanh Hóa, do linh mục Ordonez.
Dựa vào gia phả nhà họ Đỗ của thánh linh mục Đỗ Mai Năm, cụ Đỗ Hưng Viễn, người làng Bồng Trung, tỉnh Thanh Hóa, được coi là tín hữu Việt Nam đầu tiên. Cụ đi sứ và được Rửa tội tại Macao thời vua Lê Anh Tông năm 1573.
Năm 1615, tại Cửa Hàn, Quảng Nam, các linh mục dòng Tên, dưới sự điều hành của linh mục Buzomi, đã khai mở một giai đoạn mới trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam qua việc “thích nghi văn hóa”: quan tâm đến phong tục Việt Nam và giảng đạo bằng Tiếng Việt. Các vị có sáng kiến ca vãng Giáng Sinh, cổ võ ba ngày Tết kính Chúa Ba Ngôi, thay cây nêu bằng cây thánh giá, soạn sách giáo lý bằng Tiếng Việt…
Điểm nổi bật của giai đoạn này là việc Cha Đắc Lộ cho xuất bản tại Rôma năm 1651 quyển từ điển Việt – Bồ – La, sách Văn Phạm Tiếng An Nam và cuốn giáo lý song ngữ Việt – La (sách Phép Giảng Tám Ngày).
Ngày 09.09.1659, Tòa Thánh thiết lập hai giáo phận đầu tiên trên đất Việt và đặt hai Đại Diện Tông Tòa:
Vào tháng 02.1670, Đức cha Lambert de la Motte cùng với 3 vị thừa sai và 9 linh mục Việt Nam Đàng Ngoài đã họp Công Đồng đầu tiên trên đất Việt tại Phố Hiến, Hưng Yên.
Trước hiểm họa thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa sâu sắc giữa phái chủ chiến và phái chủ hòa. Trong bối cảnh phức tạp ấy, Nhà Nguyễn đã ban hành nhiều chỉ dụ cấm đạo từ năm 1833 – 1861.
Từ năm 1862, khi vua Tự Đức tuyên bố ngưng cấm đạo, các dòng tu và chủng viện được thành lập khắp nơi.
Trong bối cảnh khó khăn do chỉ dụ cấm đạo, niềm tin Kitô hữu được thanh luyện và số lượng người Kitô vẫn tiếp tục gia tăng (từ 320.000 năm 1800 lên 426.000 năm 1855). Trong số những người đổ máu đào minh chứng cho niềm tin, 117 vị đã được suy tôn chân phước trong 4 đợt: 64 vị năm 1900, 8 vị năm 1906, 20 vị năm 1909 và 25 vị năm 1951.
Ngày 11.06.1933, Giáo hội Việt Nam có Đức Giám mục tiên khởi, Đức cha Gioan Baotixia Nguyễn Bá Tòng.
Qua Tông hiến Venerabilium Nostrorum, ngày 24.11.1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII tuyên bố thành lập 3 giáo tỉnh tại Việt Nam: Hà Nội, Huế và Sài Gòn, cùng bổ nhiệm các giám mục chính tòa nơi mỗi giáo phận. Đứng đầu ba giáo tỉnh là ba vị Tổng Giám mục. Từ đây, các giáo phận tông tòa tại Việt Nam chuyển sang giáo phận chính tòa.
Lúc này, Giáo hội Việt Nam có 20 giáo phận: giáo tỉnh Hà Nội có 10 giáo phận, giáo tỉnh Huế có 4 giáo phận và giáo tỉnh Sài Gòn có 6 giáo phận. Số tín hữu là 2.096.540 người trên 29,2 triệu dân (chiếm 7,17%) với 1.914 linh mục, 5.789 nam nữ tu sĩ và 1.530 chủng sinh.
Tính đến ngày 13/10/2017, Giáo hội Việt Nam có 26 giáo phận, 121 giám mục (trong và ngoài nước). Theo báo cáo của các giáo phận tính đến ngày 31/12/2016, Giáo hội Việt Nam có 5.482 linh mục, 25.034 tu sĩ nam nữ và 6.812.954 tín hữu Công giáo.
IV. Lời kết
Xin cùng nhắc nhở với nhau: đức tin chúng ta lãnh nhận được gieo trồng và vun xới bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu đào của các vị tiền nhân. Vì thế, chúng ta cần hết sức trân trọng, gìn giữ và phát huy đức tin ấy bằng cả cuộc đời.
Dấu Ấn 350 Năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
Tác giả: Lm. Phanxicô Đào Trung Hiệu, OP
Trích nguồn: https://hdgmvietnam.com