CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG NĂM A

 

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

 

Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?

 

Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.

 

1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.

 

Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.

 

Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.

 

Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.

 

Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.

 

Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.

 

2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.

 

Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.

 

Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.

 

3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.

 

Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.

 

Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.

 

Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:

 

Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…

 

Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.

 

Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.

 

 

Nước Thiên Chúa đã đến gần

 

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

 

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).

 

Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.

 

Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.

 

Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).

 

Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.

 

Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.”Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.

 

Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan . Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.

 

Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.

 

Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị – tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.

 

Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: “Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham.” Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).

 

Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.

 

Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.

 

Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).

 

 

Chúa chỉ cần tôi một tấm lòng

Lm. Giuse Lê Quan Trung

 

Một trong những điều tôi cảm thấy thấm buồn khi màu tím mùa vọng ngày càng đậm nét trong mùa Phụng vụ đón mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng trần là: “Rất nhiều người không đủ can đảm tha thứ cho chính mình vì những lầm lỗi đã vô tình hay cố ý mắc phải trong đạo làm chủ quản lý đối với tâm hồn và thân xác mình; trong đạo làm người đối với ông bà cha mẹ và tha nhân; và đặc biệt là đạo làm con đối với Đấng đã yêu thương tạo tác nên mình!”

 

Đâu phải mỗi lần đối diện với thử thách của cuộc sống, là ai cũng thắng được hết đâu? Không ai muốn mình xấu bao giờ! Không ai muốn mình thất bại bao giờ! Và cũng chẳng ai muốn mình sai lầm bao giờ! Nhưng không ai có thể lường trước được hết những gì sẽ sắp xảy tới cho mình! Những “biển báo giao thông tâm linh” vẫn có đó nhưng đâu phải lúc nào mình cũng chú tâm nhìn chúng để đừng vấp ngã, đừng lỡ chân, đừng trật bước trên vạn nẻo đường đời mà ngày ngày mình dấn bước đâu? Chủ quan luôn là một thói tật không hay, không tốt, không đẹp! Nhưng mấy ai trong đời không từng thất bại, không từng đau đớn, không từng cay đắng ngập lòng bởi cá tính này đâu? Và điều này đã từng được Đức Giêsu thốt lên trong đau khổ nhưng với trọn tấm lòng đầy cảm thông cùng ba môn đệ thân tín trong vườn cây dầu năm xưa: “các con hãy canh thức cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối”(Mt 26,41; Mc 14,38). Một sự thương cảm đầy tình người, bởi ngoài Đấng tối cao, còn có ai hoàn hảo?

 

Mặc cảm lỗi lầm kéo dần ta ra xa nguồn ân phúc; né tránh mối tình tự hiến mà Con Chúa Trời đang mong mõi ban tặng cho đời, cơn cám dỗ “mình không xứng đáng vì đã xúc phạm quá nặng nề đến Đấng Cao Xanh” nên ” làm sao Chúa có thể tha cho tôi được!” đã đẩy ta vào mạng nhện của sự dữ, làm ta quên hay cố tình quên Đấng Cứu Tinh đã từng khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”(Mt 9, 13; Mc 2, 17; Lc 5, 32) bởi vì “người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”(Mc 2,17; Lc 5,32). Biết thụ tạo mạnh sức – yếu hồn, Chúa đã tự nguyện bước tới đưa tay ra trước để chờ đợi ôm ta vào lòng, để Người có cơ hội vỗ về an ủi, để Người có điều kiện thể hiện chức năng của một lương y tâm linh đầy nhiệt huyết, sao ta cứ xa tránh Người?

 

Khi mở quyển “Vượt Lên Nghịch Cảnh” của loạt sách Chicken Soup for the Surviving Soul” do nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn in ấn, trong câu chuyện đầu tiên “Cậu bé và nhà tỷ phú”, tôi gặp ngay câu tiêu đề cho cả cốt truyện: “Không có cái gọi là tuyệt vọng” (Henry Ford) làm tôi rộn lên trong lòng một niềm vui khó tả vì hiểu rằng, tình đồng loại không thể thiếu cho tôi, nếu tôi biết vượt lên mặc cảm của đời mình. Cậu bé Craig Shergold là niềm vui không những cho gia đình, mà còn cho cả chòm xóm, láng giềng, bạn bè và cả thầy cô nữa. Vậy mà một khối u trong não đã làm cho mọi người thân của cậu bé vùng Carohalton, ngoại ô London hốt hoảng bởi biết rằng sinh mạng của cậu khó được bảo toàn. Nhưng rồi cậu bé đã dũng cảm chấp nhận hoàn cảnh hiện tại để đi vào phòng mổ với lời khuyên của người mẹ thân yêu: “Mẹ muốn con phải thật dũng cảm!” Với khối u ác tính, một dạng ung thư não hoạt tính, mấy ai thoát chết đâu? Nhưng rồi những cánh thiệp khắp nơi đổ về động viên, khuyến khích đã làm cậu bé phấn chấn hơn. Với 1.000.266 thiệp, trong đó có cả những tấm thiệp của một số vị lãnh tụ trên thế giới như Magaret Thatcher, Thái tử Charles, George Bush, Ronald Reagan, Mikhail Gorbachev và cả hai thần tượng của Craig là Michael Jackson và Sylvester Stallone, Craig đã phá vỡ kỷ lục Guinness về người nhận được nhiều thiệp nhất mà trước đây một cậu bé người Anh khác nắm giữ (1.000.265 thiệp). Niềm vui nối tiếp niềm vui, cách đó 6000km nhà tỷ phú 77 tuổi- John Kluge ở Charlottesville, bang Virginia đã nhận được một lá thư từ những người bạn về tình trạng quá hiểm nghèo của cậu bé. Ông đã từng quyên góp hàng triệu đô la cho những người xứng đáng, nhưng chưa bao giờ ông tặng tiền trực tiếp cho một cá nhân nào. Và cũng không muốn tạo thành một tiền lệ hay khơi dậy những hy vọng hư ảo cho gia đình Craig. Nhưng rồi, khi tiếp xúc với gia đình, qua câu nói dũng cảm của cậu bé bởi gia đình không muốn cậu đau đớn nữa vì đã chịu phẫu thuật nhiều lần: “Mẹ ơi, không có thắng lợi nào mà không phải trả giá mà mẹ!” chính ý chí phấn đấu của cậu bé đã làm nhà tỷ phú quyết tâm nổ lực bằng mọi giá giành lại mạng sống cho em.Và rồi nụ cười đã tỏa rạng trên mọi khuôn mặt: Ca phẫu thuật đã thành công vượt quá mong đợi của nền y học hiện đại. Mùa xuân đã trở về trên khắp nước Anh với lời tạ ơn của Manon khi nói với chồng là Ernie lúc nhận được tin nhà tỷ phú John Kluge đã tài trợ trọn vẹn cho ca phẫu thuật của con mình: “Em nghĩ Chúa đã ban cho chúng ta một phép mầu!”.

 

Nhìn lại đời mình, tôi cũng đã từng chán nản, đã từng thất vọng, đã từng không ít lần mặc cảm với Chúa, tránh né Chúa, xa lìa Chúa vì phải đối diện, phải đối đầu, phải chứng kiến với quá nhiều nghịch cảnh mà sức mình không kham nỗi bởi chẳng ai đỡ nâng, chẳng ai trợ giúp, chẳng ai đồng hành! Nhưng rồi, trong thanh vắng, trong trầm lặng, trong những đêm hôm khuya khoắt, bỗng nghe như có tiếng thủ thỉ bên tai tôi những lời thánh thi trong kinh sáng ngày thường của mùa vọng vọng về:

 

“Đừng mê ngủ đứng lên hồn ta hỡi,

 

Dẫu thấy mình còn hôi hám bùn nhơ,

 

Vì hào quang chói lọi của kim ô

 

Làm tiêu tan hết những gì nguy hại.

 

Chiên Thiên Chúa đã từ nơi thượng giới

 

Xuống cõi trần đền tội vạ chúng ta.

 

Nào cùng nhau chạy đến lượng hãi hà,

 

Xin tha thứ bằng lời kinh thắm lệ”

 

Rồi lời thánh vịnh 26, 10 lại tiếp tục trấn tĩnh tôi:

 

“Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,

 

Thì hãy còn có Chúa đón nhận con”

 

Và thúc giục tôi hãy xóa đi mặc cảm: mặc cảm thật! bởi thấy mình bất xứng với tình yêu vời vợi từ Trời. Mặc cảm giả! Bởi mình chỉ muốn sống theo ý mình,đạt ý mình mà vẫn biết rõ điều mình đang muốn không phải là ý Chúa! Cũng chẳng đi đúng nền đạo đức nhân gian!

 

“Hãy cậy trông vào Chúa,

 

Mạnh bạo lên can đảm lên nào!

 

Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 26, 14)

 

Cậu thiếu niên Craig đã phấn đấu hết mình, cố vượt qua những giây phút chán nản, suy sụp để vươn lên tìm nguồn sống với sự trợ lực của tình người và sự can thiệp thần thiêng của Đấng Tạo Thành. Và cậu đã chiến thắng! Còn tôi? Còn chúng ta? Lời mời gọi từ vị Tiền Hô của Đấng Cứu Tinh thúc giục: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Mt 3, 3), không lẽ nào không động lòng ta? Nếu thực lòng ta quay về với NGUỒN BÌNH AN ĐÍCH THỰC, với tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tiền Hô: “còn Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi và tôi không đáng xách dép cho Người” (Mt 3, 12), chắc chắn cơn cám dỗ với mặc cảm TA KHÔNG XỨNG ĐÁNG sẽ không còn là chướng ngại, không còn là rào chắn, không còn là e dè sợ hãi cản bước ta mở rộng lòng mình, để Đấng Cứu Tinh có thể đến cư ngụ nơi mái nhà đổ nát của ta! Chúa chỉ cần nơi ta tấm lòng chân thành, còn mọi sự, Chúa sẽ tính cho! Ta có tin điều đó không?

 

Nước Trời đã gần bên

 

Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến

 

Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).

 

Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); – Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); – Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeò (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizò (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.

 

Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): – Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); – Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); – Dân chúng đến với ông (3,5-7).

 

Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).

 

Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)

 

Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeò theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeò có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeò” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeò nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeò, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.

 

Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizò, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.

 

Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)

 

Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).

 

Dân chúng đến với ông (3,5-6)

 

“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3,11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).

 

Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.

 

Lời nói thật thì khó nghe

Lm. Đam Trần Đình Nhi

 

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng

 

Ngôn sứ Isaia đã nói trước về ông Gioan Tẩy Giả, gọi ông là “tiếng người hô trong hoang địa”. Hôm nay tiếng hô ấy không lọt tai chút nào, trái lại ít ra làm cho nhiều người thuộc phái Pharisêu và Xa-đốc phải khó chịu hoặc choáng váng mặt mày. Tại sao thế? Vì ông Gioan thẳng thắn sửa sai họ. Vậy chúng ta hãy xem tiếng hô đã nói gì về nhóm người ấy và có lẽ cả về chúng ta hôm nay nữa.

 

Chúng ta thử hình dung khung cảnh bờ sông Gio-đan, khuôn mặt ông Gioan Tẩy Giả, nhóm người Pharisêu và Xa-đốc. Nét mặt ông Gioan không dữ dằn hay đỏ gay vì nóng giận, nhưng nghiêm nghị và đượm một chút thất vọng. Ông nhìn thẳng vào họ và cất tiếng nói. Ông không nói bóng gió hay rào đón, nhưng đi thẳng vào vấn đề của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa như bao người thì đâu là vấn đề? Theo lời ông Gioan, đây là vấn đề thứ nhất của họ. Họ đến xin ông làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của ông Gioan là một thứ nghi thức hay phù phép để giữ cánh tay trừng phạt của Thiên Chúa lại. Cái chứng đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính! Nhưng thực ra phép rửa của ông Gioan chỉ là dấu hiệu mời gọi họ hãy thay đổi cuộc sống mà “sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”.

 

Vấn đề thứ hai của nhóm Pharisêu và Xa-đốc là tính tự tôn, dựa vào gốc gác là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Quả thực họ mang cái vỏ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ Áp-ra-ham nữa! Tổ phụ Áp-ra-ham là cha của đức tin. Còn họ thì sẽ chẳng tin vào Chúa Giêsu và sứ mệnh cứu độ của Người (xem Gioan 8:31-41). Tổ phụ Áp-ra-ham “đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của [Chúa Giêsu]”. Còn họ thì “lượm đá để ném Người” (8:56-57).

 

Để sửa sai các “vấn đề” của họ và cũng là vấn đề của chúng ta hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi tất cả hãy thực lòng sám hối và tin vào Đấng sẽ đến sau ông, tức là Chúa Giêsu, Đấng “sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa, tay cầm nia rê sạch lúa trong sân”. Nói khác đi, chúng ta phải tin vào sứ mệnh của Chúa Giêsu là làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa và sẽ tiếp tục thanh tẩy chúng ta thành “thóc mẩy” để được thu vào kho lẫm đời đời của Thiên Chúa.

 

Sống sứ điệp Tin Mừng

 

Có lẽ chúng ta tự hào mình không giống như những người nhóm Pharisêu và Xa-đốc, và những lời cảnh báo của ông Gioan Tẩy Giả không nhắm vào chúng ta. Không phải vậy đâu! Cách sống đạo của chúng ta nhiều khi không khác gì “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, làm mọi sự vừa đủ để khỏi bị xuống… hỏa ngục! Chúng ta đi lễ Chúa Nhật vì luật buộc, đọc kinh hạt theo số lượng mà không có lòng. Chúng ta cứ tưởng hễ mình mang danh Công giáo là mai sau sẽ ung dung bước vào thiên đàng. Chúng ta không cần để ý phải “sinh quả tốt” là đời sống Kitô hữu đích thực với đức tin sống động ngay ở đời này.

 

Sứ điệp của ông Gioan Tẩy Giả thuộc loại “sự thật mất lòng”! Nó đòi chúng ta phải can đảm nhìn thẳng vào cuộc sống mình, để nhận diện những “vấn đề” trong đời sống thiêng liêng cũng như gia đình và xã hội của chúng ta. Sứ điệp của ông Gioan không đe dọa, nhưng thành thực giới thiệu với chúng ta Đấng cứu độ là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Vậy thì mùa Vọng cũng là thời gian để chúng ta thay đổi lối sống và theo Chúa Giêsu làm môn đệ Người.

 

Hãy sám hối ăn năn

Lm. Phêrô Trần Minh Đức

 

Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.

 

Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.

 

Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!

 

Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.

 

Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.

 

Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.

 

Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.

 

 

Dọn cho Chúa một con đường

 

Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng

 

TỪ TIẾNG KÊU SA MẠC…

 

Thành tâm đón nhận:

 

Nói đến “hoang địa”, “sa mạc”, ta nghĩ ngay đến nơi vắng vẻ, hiu quạnh. Đó là những vùng đồi núi chập chùng cằn khô sỏi đá, hoặc là những vùng đất cát thênh thang trải dài như bất tận. Điều kiện sống ở đây khắc nghiệt quanh năm, nên hầu như không có ai lai vãng đến đây. Sự sống ở đây là một cuộc chiến đấu cam go. Cuộc chiến đấu thanh luyện để tồn tại.

 

“Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắc lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt.3,4).

 

“Lạc đà” là biểu tượng của sa mạc. Hầu như đó là phương tiện duy nhất để di chuyển trên sa mạc. Người ta gọi con lạc đà là “con thuyền sa mạc, con thuyền trên biển cát”. “da”, “châu chấu”, “mật ong rừng” là những thứ hoang dã. Gioan đã tự nguyện thành “người sa mạc” để thanh luyện mình. Tiếng “người hô trong sa mạc” không phải là người thành phố sang trọng vào sa mạc để réo gọi, Nhưng đó chính là người thật sự đang sống với cung cách sống ở sa mạc, đã kêu lên bằng chính tiếng nói và đời sống của mình. Đời sống được thanh luyện để lời nói được trong sáng, đủ sức chuyên chở thông điệp của Thiên Chúa về ngày Thiên Chúa đến. Như hình ảnh các ngôn sứ xưa, mang sứ mạng chuyển tải Lời Chúa đến với dân riêng Ngài. (2V.1,8).

 

Tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa. Hãy bạt lối người đi. (Mt.3,3). (Bản dịch của Cha Thuấn).

 

Tiếng vọng từ sa mạc, chỉ có ai biết tìm về sa mạc mới nghe thấy được. Tìm về nơi thanh vắng, tìm về cõi tĩnh lặng để lắng nghe tiếng gọi vang vọng trong chính tâm hồn mình.

 

“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-dê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. (Mt. 3,5-6).

 

Đón nhận cách giả hình:

 

“Có tiếng người hô trong sa mạc…” (Mc.1,3).

 

Sao không là tiếng hô trong thành phố? Sao không là tiếng hô ở Giêrusalem? Vì con người cần phải vào sa mạc. Sa mạc ở đâu? – Sa mạc ngay tại lòng mình.

 

Đó là cõi nội tâm thênh thang với những buồn vui, những yếu đuối, những khát vọng của kiếp người. Trong thinh lặng nội tâm, ta dễ dàng nhận ra tiếng lòng mình. Tiếng Chúa hướng dẫn đời ta. Đó là giây phút gặp gỡ Chúa một cách thân tình. Đó là giây phút cầu nguyện, ta biết ta yếu đuối và ta biết Chúa yêu thương ta. Ta dọn đường Chúa đến với niềm tin yêu vững vàng. Ta loại trừ những chướng ngại đang vây quanh ta, làm cản bước Chúa đến với ta. Những chướng ngại mà từ lâu ta tưởng chúng bảo vệ ta, hóa ra chúng cô lập ta, chúng làm ta mất liên lạc với Chúa. Chúng ta được vây bọc bởi những tham vọng và thụ hưởng trần tục, và chính ta biết những điều ấy không phải là những điều thuộc về Thiên Chúa, trong sâu xa cõi lòng mình, ta biết mình đang ở vị trí nào trên nấc thang đạo đức, trên nấc thang vươn lên Thiên Chúa ta còn ở vị trí là đà trên mặt đất, nhưng lòng ta vẫn muốn mọi người tin rằng ta cao cả, ta đang ở trên cao, và, thế là, ta sống giả hình. Ta khoát lên mình chiếc áo đạo đức giả hình đề che dấu một tâm hồn kiêu căng và gian dối.

 

“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt.23,27).

 

Thế nên, phải dọn cho Chúa một con đường nội tâm chân chính. Con đường ấy là một cuộc hành trình sa mạc đầy thử thách gian nan, như dân It-ra-en trải qua 40 năm sa mạc để về miền Đất Hứa. Con đường ấy, trong ánh sáng mạc khải Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, đó là Con Đường Thập Giá.

 

“Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối.” (Mt.3,7-8)

 

… ĐẾN TIẾNG GỌI TRONG LÒNG

 

Tình Yêu và Chân Lý có tiếng nói mạnh mẽ trong con tim mỗi người, khó mà chối bỏ được. Nhiều khi vì danh vọng, bạc tiền, tư lợi nào đó, người ta tìm cách chối bỏ Thiên Chúa. Người ta khóa chặt cửa lòng từ chối đón Chúa vào căn nhà tâm hồn mình. Nhưng tiếng gọi trong lòng vẫn không hề tắt lịm. Tiếng gọi thiêng liêng vẫn mãi mãi còn đó như Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người mãi mãi còn đó. Con người chối bỏ là sự chọn lựa của chính mình. Là do con tim nguội lạnh. Ngọn lửa tình yêu không còn bùng cháy trong trái tim nữa.

 

“Thầy đã đến ném lửa trên thế gian và Thầy mong biết bao nhìn thấy nó bùng lên” (Lc.12,49).

 

Con người chối bỏ Thiên Chúa, vì con người không đón nhận Thánh Thần. Không lớn lên trong Thánh Thần. Không có Thánh Thần con người không thể được nâng lên khỏi lãnh vực xác thịt, không thể trở nên con Thiên Chúa, không có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha.

 

“Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga.4,24).

 

Chính vì thế, chúng ta phải dọn cho Chúa một con đường để Ngài đến với ta. Để Ngài thật sự thuộc về ta, ta thuộc về Ngài. Chỉ có Ngài – Đấng Cứu Thế – mới có thể ban phát cho ta hồng ân vô biên đó, vì được làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, là hạnh phúc lớn nhất mà con người tìm kiếm.

 

“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt.3,11).

 

Khi ấy, lòng ta trải rộng, Ta nhận ra Thiên Chúa, Đấng yêu thương ta một cách trọn vẹn. Hình ảnh Thiên Chúa không còn đóng khung trong trí tưởng tượng hẹp hòi của con người. Con tim ta sẽ mở ra, để đón nhận và cho đi suối nguồn tình yêu mà nhờ Chúa Giêsu Kitô ta được ban phát dồi dào đến vô tận. Khi ta khát khao tìm Chúa, ta mới được Chúa soi sáng tâm trí để nhận ra chân dung đích thực của Chúa. Có nhận ra được chân dung đích thực của Chúa, ta mới cảm nhận được sự cao cả và ngọt ngào của Thiên Chúa Tình Yêu. Và đó là niềm tin yêu và hy vọng mà ta hằng luôn ấp ủ trong tận cùng khối óc và con tim ta trong suốt cả đời. Và đó cũng là Mùa Vọng của một đời người.

 

Có một câu chuyện kể về một bé trai sống trong viện mồ côi: Một đêm nọ, nó giật mình thức giấc. Trời vẫn tối đen, nhưng nó biết rằng hừng đông chẳng mấy chốc nữa sẽ tới. Nó cảm thấy rất nóng lòng muốn thấy cảnh bình minh bên bờ hồ, nhưng các quy định trong viện thật khắt khe: không có lý do chính đáng thì không một em nào được thức dậy trước chuông và cấm ngặt không được ra khỏi phòng ngủ tập thể cho đến khi được phép. Nhưng nó quyết định liều một phen. Nó vội vàng mặc quần áo, cầm giày trên tay và bò ra ngoài để khỏi đánh thức ai. Nó bò một hồi đến hành lang dài và không muốn bắt gặp những cái nhìn không tán thành của các hình ảnh trên tường.

 

Sau cùng cũng đến được bờ hồ, trong bóng tối, nó ngồi đợi hừng đông. Và kìa! Ngày mới đang bắt đầu, ánh dương ngả từ màu cam sang màu đỏ. Nó mải mê ngắm những tia sáng phản chiếu trên mặt hồ, say sưa với vẻ đẹp tinh khôi. Thình lình nó chợt nhớ đã hết giờ. Lúc này mọi người hẳn đã thức dậy. Nó sẽ trễ mất. Nhất định gặp rầy rà rồi. Nghĩ vậy, nó đứng lên và nói những lời sau cùng với hồ nước: “Bây giờ mình phải về đây. Cám ơn bạn. Mình không lo nếu có bị phạt, bởi vì mình đã hiểu ra rồi. Bây giờ mình biết rằng Thiên Chúa của hồ nước vĩ đại hơn Thiên Chúa của viện mồ côi (Gallagher).

 

Lạy Chúa,

 

Xin soi sáng lòng trí con,

 

Để con nhận ra những lỗi lầm.

 

Sửa đổi cuộc đời con,

 

Để nên một con đường,

 

Ngài đoái thương thăm viếng. Amen.

 

 

Mùa Vọng: Mùa màu tím

ĐGM Vũ Duy Thống

 

Nếu Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, với lối nhìn viễn cảnh, người ta thấy sáng lên dung mạo của Thiên Chúa, Đấng hằng hy vọng vào con người, đồng thời cũng nhận ra dáng đứng của tín hữu là biết hy vọng vào Thiên Chúa bằng lòng tỉnh thức, để Mùa Vọng được gọi là mùa xanh lên niềm hy vọng thì Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, với lối nhìn cận cảnh, người ta lại thấy Phụng Vụ được diễn tả bằng một màu khác, không còn êm ả mướt xanh nữa mà đã đi vào lắng đọng tím màu để Mùa Vọng cũng gọi được là mùa màu tím.

 

Tím không ở chân trời nắng xế; tím không ở dòng sông Giođan chiều về nơi Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa; tím cũng không ở sắc phục linh mục bước ra dâng lễ, mà tím ở tâm can những tín hữu biết chân thành ăn năn lầm lỗi bao ngày qua để thấy trong lệ sa màu tím của lòng mình. Mùa Vọng đích thực là mùa của màu tím sám hối.

 

Nhưng làm sao để lòng sám hối diễn tả được nỗi lòng Mùa Vọng, hay nói lên được sắc màu hy vọng? Trả lời câu hỏi này tức là cùng lúc phải xét đến những đặc tính sám hối của Mùa Vọng.

 

1) Sám hối mang màu hy vọng không cúi gập trên những lầm lỗi của mình mà hướng mở về tình thương Thiên Chúa.

 

Đối với nhiều người, sám hối cũng đồng nghĩa với lòng hối hận, tức là nhận thức về thân phận tội lỗi của mình, ý thức về những lỗi lầm mình đã phạm và buồn vì mình đã làm xấu cuộc đời mình đi. Tất nhiên, lòng hối hận như thế tự nó có một ý nghĩa nhất định, nhưng nếu chỉ có thế và chấp nhận dừng lại như thế, rõ ràng là có khuynh hướng co cụm lại và cúi gập trên những lầm lỗi của mình. Hối lỗi thì ít mà xem ra hận mình lại nhiều, để rồi khi tự mình vùng vẫy trong tình huống mất thăng bằng ấy, người ta dễ bị rơi xuống vực sâu thất vọng, giống như con muỗi sa vào lưới nhện càng vùng vẫy càng bị xiết chặt, và giống như những kẻ sa vào vũng lầy càng ngoi ngóp càng bị lún sâu.

 

Thực ra, hối hận chỉ là một thành phần trong hành vi sám hối, hay đúng hơn là khởi điểm của cả một tiến trình trở về mà Thiên Chúa chính là cao điểm và kết điểm. Chính vì đối diện với Thiên Chúa mà tôi biết mình có tội và cũng vì hướng đến Thiên Chúa mà tôi hối hận tìm về. Người ta vẫn bảo sám hối là hai mắt nhìn của con người nội tâm: một mắt nhìn vào mình để nhận ra những tội lụy của một đời xa vắng đã dẫn tới sa ngã rồi xa lìa tình thương Thiên Chúa và mắt khác nhìn vào Thiên Chúa để thấy nơi Ngài một tình yêu như tấm lòng người cha, như trái tim người mẹ bao dung thương xót mà xin ơn làm lại cuộc đời.

 

Hai con mắt, hai hướng nhìn nhưng vẫn chỉ là một lòng sám hối mang màu hy vọng. Thiếu một trong hai, sắc màu hy vọng đều bị nhạt nhòa. Sẽ là thất vọng nếu chỉ nhìn tội mình mà quên nhìn tình Chúa và sẽ là vô cùng ảo vọng nếu chỉ nhìn tình Chúa mà quên nhìn tội mình; nhưng sẽ là hy vọng dâng đầy cho những ai vươn lên tình yêu Thiên Chúa khởi đi từ lòng sám hối tội lỗi của mình. Hình như trong lời kêu gọi “Hãy sám hối” đã có tiếng giục giã “Hãy hy vọng”, và sở dĩ Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối hôm nay là bởi vì đã có niềm hy vọng dọn đường chờ mong Chúa đến.

 

2) Sám hối mang màu hy vọng không dừng lại trong nội vi tâm thức mà biết tỏa rộng lên cả cuộc đời.

 

Đối với một số người khác, sám hối là một cách nói ám chỉ một chuyển biến từ một tình trạng cũ và xấu đến một tình trạng mới và tốt hơn, nhưng hối lỗi chỉ là một chuyển biến xảy ra trong nội vi ý thức của cuộc sống tâm hồn, cùng lắm cũng chỉ được diễn ra bằng những nghi thức đã được quy định. Thế thôi. Rõ ràng cách nhìn như thế quả là không ổn. Không ổn ở chỗ nó quá máy móc, làm như cứ tham dự một số nghi thức sám hối là đương nhiên mình được thanh tẩy bất kể đời sống của mình ra sao; và không ổn ở chỗ nó quá nội giới, làm như sám hối chỉ là một thứ tâm lý liệu pháp nào đó theo kiểu kể tội trong gió, gió thổi bay đi là xong.

 

Sám hối Mùa Vọng đâu phải là thứ sám hối như thế, mà thật ra phải là thứ sám hối toàn diện đúng mức với lòng hối cải, vốn bao gồm hai động tác cơ bản đan xen: “hối” có nghĩa là hối lỗi và “cải” là kiểu nói tắt của chữ cải thiện. Nếu hối lỗi là lời đoạn tuyệt với quá khứ tội lụy, thì cải thiện là lời quyết tâm dấn bước vào một tương lai tươi mới. Và đến khi sám hối trở thành một thói quen ăn sâu vào trong nhịp sống để nỗ lực chuyển đổi không ngừng lên những tình trạng tốt hơn thì đó chính là một cuộc lột xác đổi đời; không giống như đổi đời xe đời máy mà là đổi đời sống cách sống với những hệ lụy cụ thể không thể lần lữa chần chừ được.

 

Không phải vô tình mà Gioan Tẩy Giả bảo những kẻ đến với ông là “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối” nhưng qua đó ngài cho thấy lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể của mình.

 

3) Sám hối mang màu hy vọng biết vượt qua những động tác để trở thành một thái độ sống.

 

Đối với một số người khác nữa, sám hối thường được quan niệm như một cao trào chỉ bùng lên một năm vài lần vào những dịp lễ đặc biệt như cách phân bổ Lịch Công Giáo hiện nay, tức là xuân thu nhị kỳ: một lần vào Mùa Vọng để dọn lòng mừng lễ Giáng Sinh cho sốt sắng và lần nữa vào Mùa Chay để tỏ bày sự thông công vào lễ Phục Sinh cho phải đạo, “Xưng tội một năm ít là một lần và chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong Mùa Phục Sinh”.

 

Xem ra cách thực hành sám hối như vậy cũng có những nét cụ thể nhất định, nhất là lại phù hợp với đại đa số giáo dân vốn đầu tắt mặt tối chạy vạy với cuộc sống kinh tế gia đình hoặc xã hội. Nhưng từ căn bản có cái gì đó chưa ổn. Một mặt quá gắn liền động tác sám hối với việc đón nhận Bí tích Hòa Giải sẽ dẫn tới ý nghĩ rằng khi mình không nhận Bí tích Hòa Giải thì mình cũng chẳng cần đến sám hối nữa; và mặt khác coi sám hối chỉ như một động tác diễn ra trong khoảnh khắc sẽ tới lúc nghĩ rằng sám hối chỉ là điều kiện ắt có và đủ cho việc xưng tội chứ không như một thái độ thường xuyên phải có trong đời Kitô hữu.

 

Thực ra sám hối mang màu hy vọng không đơn thuần là một động tác cho bằng là một thái độ. Sám hối là một thành phần của đời sống đức tin, nhưng lại gói ghém và len lỏi vào mọi ngõ ngách của toàn bộ cuộc sống đức tin ấy. Chả thế mà Gioan Tẩy Giả khi trả lời cho đám đông về việc thực thi sám hối đã mở ra cho họ một nhãn giới thật rộng bao gồm cả việc thực thi công bình và sống tình bác ái. “Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt thấp” đâu phải chỉ là chuyện dọn dẹp đường xá, mà đã trở thành chuyện khai quang tâm hồn để nhìn thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. Cũng thế, việc chia cơm sẻ áo đâu phải chỉ là chuyện cứu trợ, mà đích thực đã là cách diễn tả cụ thể của lòng sám hối chờ mong Chúa đến.

 

Tóm lại, sám hối mang màu hy vọng là sám hối tìm về tình thương Thiên Chúa, chấp nhận thay đổi cuộc đời và biết để cho ơn tha thứ thấm đẫm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống đức tin. Đó là sám hối Mùa Vọng chuẩn bị đón lễ Noel, nhưng đó cũng là thái độ thường xuyên của đời tín hữu. Và cũng vì có sám hối như vậy, Mùa Vọng đúng nghĩa chính là mùa màu tím từ bên trong ra bên ngoài và từ ngôn ngữ tới hành vi. Chúc mọi người những ngày Mùa Vọng thật sốt sắng.

 

 

 

 

 

Món “ăn năn”

ĐGM Vũ Duy Thống

 

 

Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh. Món ấy là món gì?

 

Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, cũng là món ăn hữu ý được nhìn qua trang Tin Mừng hôm nay. Nhưng để tránh dị ứng hoặc phản ứng phụ, đồng thời để tận hưởng những hiệu quả bổ dưỡng, trang Tin Mừng đề nghị ta những động tác quan trọng để hưởng dùng món “ăn năn sám hối”.

 

1) Động tác thứ nhất là chân thành nhìn nhận tội lỗi của mình.

 

Đây là động tác mở đầu trong tiến trình ăn năn sám hối, cũng là động tác mở đầu cho bất cứ một sinh hoạt phượng tự nào khi con người tiếp cận với Thiên Chúa: ta vừa mở đầu Thánh Lễ với tâm tình thú tội ăn năn. Chính Chúa Giêsu ngày trước cũng đã mở đầu sứ vụ công khai của Người bằng lời kêu gọi không quên “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”. Và ngay Gioan Tẩy Giả cho dẫu trong hoang địa nắng cháy khô cằn chẳng có gì ăn, cũng hô vang đồi núi: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã đến gần trong không gian và cũng vì Nước Trời đã gần đến trong thời gian.

 

Động tác “nhìn nhận tội lỗi” trong mắt nhìn của những kẻ xa lạ với Tin Mừng có thể là một thứ tâm lý xa rời thực tế theo kiểu “không ai bắt lỗi ngu gì mà thú nhận”; nhưng đối với những kẻ tin vào Phúc Âm đó lại là hai mắt nhìn của một tấm lòng chân thành: một mắt nhìn vào mình để nhận ra thân phận mình tội lụy và một mắt nhìn lên Chúa để nhận lấy lòng thương bao dung tha thứ của Ngài. Ta nhận mình có tội bởi ta đã nhìn vào tình thương của Chúa từ hồi nào. Ta nhận ra Chúa yêu ta bởi ta đã nhìn thấy từng ngày lỗi tội của mình.

 

Như vậy, “nhìn nhận tội lỗi” chính là động tác mở đầu của món “ăn năn sám hối”, cũng là động tác mở về tình thương của Thiên Chúa và mở vào kho tàng thiêng liêng chất chứa ơn tha thứ do Thiên Chúa thết đãi con người. Tự căn bản, xưng thú tội lỗi của mình cũng là tuyên xưng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

 

2) Động tác thứ hai được gặp thấy trong lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”.

 

Có thể có ai đó ngẩn ngơ thầm nghĩ: “Ơ hay, cái ông Gioan Tẩy Giả này mới thật là ngớ ngẩn, sám hối như trong động tác thứ nhất tự nó đã là một việc lành rồi, cần phải làm thêm việc lành khác nữa sao? Vẽ chuyện!”. Xin thưa rằng ông Gioan Tẩy Giả không ngớ ngẩn đâu, ngược lại, trong lời kêu gọi đơn giản của ông đã hàm chứa những ý nghĩa đẹp đến độ ngẩn ngơ cho một lòng ăn năn tích cực và đích thực.

 

Lòng ăn năn tích cực không dừng lại trong ý thức nhìn nhận tội lỗi của mình, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ dày vò lương tâm bất bình bất ổn bất an bất toàn; hay thành một thứ hối hận theo tự điển tra ngược, là “hối thì ít mà xem ra hận lại nhiều!”. Không phải thế, lòng ăn năn tích cực là cả một tâm tình sống ơn tha thứ, sống do ơn tha thứ và cũng sống cho ơn tha thứ, có nghĩa là một sức sống được chuyển dịch một cách cụ thể qua những việc lành mọi lúc mọi nơi cho Chúa và cho anh chị em mình.

 

Đó cũng là lòng ăn năn đích thực không đồng hóa với một thứ tình cảm chợt đến chợt đi, bởi nếu chỉ có thế nó có nguy cơ biến dạng thành một thứ cảm tình vị kỷ theo kiểu làm việc lành cho “sướng”, thế thôi, trong khi lòng ăn năn đích thực gọi đến một phẩm cách, một trách nhiệm. Gioan Tẩy Giả không bảo làm việc lành cho “sướng” mà hãy làm việc lành cho “xứng” với lòng sám hối.

 

3) Động tác thứ ba để thưởng thức món “ăn năn”, đó là khiêm tốn đợi chờ Đấng đang đến.

 

Đấng ấy không phải là người xa lạ, mà là một THỰC KHÁCH viết hoa viết đậm của mọi Kitô hữu quanh bàn “ăn năn”. Đấng ấy là Đức Kitô đã đến lần thứ nhất trong lịch sử với ngả nghiêng cây Thập Tự, sẽ đến lần thứ hai ngày cánh chung với sự công chính và nền hòa bình viên mãn, và Người đến từng ngày cho tất cả những ai khiêm tốn đợi chờ với lòng sám hối.

 

Thảo nào trang Tin Mừng hôm nay nói nhiều đến từ ngữ “dọn đường và sửa đường”. Dọn đường bởi vì Đấng ấy đang trên đường đến với ta và sửa đường “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống” là bởi vì Người chỉ thích đến với ta trên đường công chính.

 

Hiểu như thế, ăn năn không phải là ăn điều gì khác hơn là ăn chính Đấng đang đến: Chúa Kitô. Chính Người là đích điểm của việc sám hối. Vắng Người là thiếu tất cả: việc sám hối có thể co cụm lại như một thứ nghi thức thực hiện cho yên lương tâm; nhưng có Người là có tất cả: việc sám hối bấy giờ sẽ trở nên một mạch nguồn sức sống mới trong Thánh Thần. Nói cách khác, lòng người sám hối Mùa Vọng ví tựa những căn phòng, quá ngổn ngang chật hẹp, Chúa Kitô sẽ không thể chen chân bước đến; nhưng ngược lại biết dọn dẹp sạch sẽ thẳng ngay, Người sẽ ung dung tìm vào như vào trong căn hộ của mình.

 

Tóm lại, dẫu chẳng phải là “người có tâm hồn ăn uống” mà chỉ vì cái phong phú và lắt léo của tiếng Việt, nên đã xin chia sẻ Phúc Âm hôm nay qua dạng thức của một món ăn: món “ăn năn sám hối” với ba động tác: nhìn nhận tội lỗi, thực hiện việc lành và chờ đợi Chúa đến; một cách trực tiếp là họa lại lời Gioan Tẩy Giả vang lên trong trang Tin Mừng, một cách gián tiếp là lòng hẹn lòng hãy tìm đến món “ăn năn” qua việc sống Bí tích Hòa Giải.

 

Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân.

 

Mười năm trước khi kinh tế còn khó khăn, trên đường đi hằng ngày thấy xuất hiện những tấm bảng hiệu nhận phục hồi những cơ phận máy móc, tôi đã có ý nghĩ nên ghi trên tòa Hòa Giải một tấm bảng hiệu nhận “phục hồi sự sống các tâm hồn”. Hôm nay, thời kinh tế mở cửa, trên đường từ chợ Bến Thành về đây thấy nhan nhản những bảng hiệu của các quán ăn đặc sản, từ Hương phố tới Hương đồng, từ Hương xưa tới Hương rừng lao xao. Tôi nghĩ có lẽ phải ghi trên tòa Hòa Giải tấm bảng khác thôi: Hương thiêng đặc sản tâm hồn, món “ăn năn” dẫn đến nguồn thánh ân.

 

Kinh nghiệm trở về

Achille Degeest

 

 

Để hiểu đoạn văn của tiên tri Isaia trích dẫn ở đây, phải nhớ rằng não trạng Do Thái bị đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm về sự Xuất Hành. Cuộc Xuất Hành đầu tiên là vụ trốn thoát khỏi Ai Cập. Nhưng về sau, dân Israel còn trải qua những cuộc lưu đầy khác, theo sau là những cuộc giải phóng, những vụ Xuất Hành mới. Ở đây lời tiên tri của Isaia liên quan đến cuộc giải thoát khỏi ách thống trị Babylone. Cũng như xưa khi ra khỏi Ai Cập, Do Thái sẽ phải đi qua sa mạc, sa mạc Syria.

 

Theo Isaia thì tiếng kêu hiệu triệu rằng phải dọn cho Chúa một con đường trong sa mạc. Còn theo Gioan Tẩy Giả, đó lại là tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa. Hai cách nói trên không chống nghịch nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Nếu biết rằng não trạng Kitô giáo được đánh dấu sâu xa bởi kinh nghiệm trở về với Chúa, bởi cuộc ‘xuất hành thiêng liêng’, người ta có thể chấp nhận rằng tiếng Chúa gọi giữa loài người thường giống như một tiếng kêu trong sa mạc, nhưng đàng khác người ta kinh nghiệm rằng, nếu biết nghe tiếng ấy, thì cuộc trở về với Chúa, nghĩa là sự trở lại, gồm có những giai đoạn ‘lột xác’ trong sa mạc, từ bỏ, trần trụi. Song không được ngã lòng, bởi vì tiếng Chúa là tiếng loan báo Tin Mừng, loan báo Tự Do.

 

Trong cách thức hành động của Gioan, ta hãy nêu ra hai điểm:

 

1) Người làm phép rửa trong giòng sông Giođan. Nghi thức tẩy rửa với nước, từ việc rửa tay đến việc tắm gội toàn thân, là một tục lệ thông thường của người Do Thái và nơi các dân tộc khác. Nghi thức đó có ý nghĩa tôn giáo. Mối nguy mà Gioan nói tới, là ở chỗ tin rằng chỉ cần làm nghi thức là có thể coi mình đã trong sạch rồi. Dù vậy Gioan vẫn không coi thường nghi thức ấy, vẫn áp dụng, vẫn làm phép rửa.

 

Phép Thánh Tẩy Kitô giáo sử dụng nước để rửa, như một dấu hiệu. Con người hiện đại dễ coi khinh các dấu hiệu bên ngoài. Cần phải nhấn mạnh với họ rằng những yếu tố hình thức cho phép đi tới những thực tại sâu xa, miễn là được áp dụng trong một số điều kiện nào đó. Bí tích là những dấu hiệu của một thực tại thiêng liêng; bí tích biểu hiệu bên ngoài điều mà ơn sủng thể hiện bên trong.

 

2) Phép rửa Gioan kèm theo việc tự cáo tội. Đó là một việc bề ngoài. Thiên Chúa thấy tận thâm sâu của cõi lòng ta, và chính là trong chỗ thầm kín đó mà Người thôi thúc, cật vấn con người. Mà nếu nhìn vào đáy sâu của lương tâm mình, nó không thể không thấy mình khốn nạn. Lúc đó hoặc là nó trở nên mù quáng, hoặc ngã lòng, hoặc sẽ cầu xin Chúa thanh tẩy mình. Chúa thanh tẩy và giúp đỡ con người thành thực có lòng ao ước ra khỏi vòng tội lỗi. Đó là một kinh nghiệm khởi đầu và đi theo suốt cuộc đời người Kitô hữu.

 

Hãy dọn đường Chúa

  1. Veritas

 

 

Ba nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh được Giáo Hội nhắc đến trong Mùa Vọng để giúp chúng ta chuẩn bị đón chờ Chúa đến là tiên tri Isaia, thánh Gioan Tiền Hô và Mẹ Maria. Không những các Ngài đã đón Chúa đến trong cuộc đời mình, mà các Ngài còn giúp cho mọi người khác biết cách để đón chờ Chúa đến.

 

Bài đọc thứ nhất của cả bốn Chúa Nhật Mùa vọng đều trích lại sứ điệp tràn đầy hy vọng của tiên tri Isaia. Trong cảnh sống nhiều thử thách và bóng tối đau thương dường như thể Thiên Chúa không có mặt, như bỏ rơi con người. Tiếng nói đầy hy vọng của tiên tri Isaia vang lên loan báo Thiên Chúa sắp đến thực hiện lời Ngài đã hứa, là thiết lập lại sự công bằng và hòa bình.

 

Thời của chúng ta đang sống tuy cách xa thời của tiên tri Isaia, nhưng vẫn cần lắng nghe và hy vọng vào sứ điệp của tiên tri Isaia. Con người có âm mưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi con người, nhưng phần Thiên Chúa thì Ngài không thể vì thế mà bỏ mặc con người với những thảm cảnh do chính con người tạo nên, như họ muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa luôn luôn có cách thế để vượt thắng những điều tiêu cực trong lịch sử con người và chương trình cứu rỗi vẫn được Ngài thực hiện.

 

Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân Israel đang gặp thử thách ngày xưa và cho chúng ta ngày nay về dung mạo của Thiên Chúa Cứu Chuộc sắp đến là vị Thiên Chúa mà con người cần đến, với những lời được trích lại trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng; “Chúa lấy công minh mà xét xử người nghèo” (x. Is 11,1-10). Đó là những đường nét chính của một vị Thiên Chúa cứu rỗi mà con người mọi thời đại cần đến, một vị Thiên Chúa công bằng trong xét đoán và giàu tình yêu thương, vì Ngài đến để thiết lập cuộc sống hoà bình và hoà hợp cho con người. Cuộc sống ấy được tiên tri Isaia loan báo bằng hình ảnh môi sinh, trong đó sói sống chung với chiên, trẻ nhỏ dám tiếp xúc với các thú dữ. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người được sống trong cảnh thái bình hoà hợp. Nhưng từ phía con người, họ không được sống ỷ lại để mặc Thiên Chúa muốn làm sao thì làm, nhưng họ phải biết thay đổi cuộc sống của mình mà trở về với Thiên Chúa, đón nhận hồng ân Ngài ban.

 

Trong viễn tượng này, bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng nhắc lại sứ điệp của thánh Gioan, kêu gọi con người hãy thực sự trở về với Thiên Chúa bằng hành động thiết thực, chứ không phải bằng lời nói suông cho qua lần. Qua đó chúng ta có thể lưu ý đến những lời sau đây ghi lại điểm chính của sứ điệp là: “Hãy ăn năn và sám hối”.

 

Sự ăn năn sám hối là bước đầu tiên không thể bỏ qua được trên con đường trở về với Thiên Chúa. Cần dứt khoát, không được chần chờ kéo dài thời gian mãi được: “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”. Hơn nữa, trong số những người đến nghe Gioan rao giảng và muốn thực hiện việc ăn năn trở lại, có những người biệt phái và các văn nhân thuộc phái Sadduceo, họ bị thánh Gioan trách nặng lời: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai bảo các ngươi trốn cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”.

 

Dù là ai hay trong địa vị nào đi chăng nữa, thì ai ai cũng là kẻ có tội và cần sự ăn năn thống hối, cần thật lòng trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống của mình xem trong ta còn có trở ngại nào ngăn cản không cho Chúa đến trong chính chúng ta và trong xã hội mà chúng ta đang sống.

 

Chúng ta hằng ngày hãy đọc kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến…”. Lời chúng ta cầu xin cho Nước Cha trị đến sẽ chỉ là lời nói suông hay chỉ là lời nói theo thói quen bao lâu chúng ta không thực sự canh tân đời sống mình: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

 

 

Chú giải của Noel Quesson

 

Hồi ấy…

 

Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.

 

Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng

 

Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.

 

Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:

 

“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”

 

Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.

 

Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói… hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).

 

Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.

 

Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?

 

Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!

 

Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.

 

Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!

 

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.

 

Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!

 

Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.

 

Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.

 

Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.

 

Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?

 

Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.

 

Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.

 

Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.

 

Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.

 

Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!

 

Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.

 

Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.

 

“Người ngự đến… còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.

 

Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

 

Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu’. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.

 

Thích, theo dõi và chia sẻ!


Các tin mới cập nhật:

Lời hay ý đẹp

HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ GÒ VẤP

523A  Lê Đức Thọ, P.16, Q. Gò Vấp, Tp HCM
ĐT: 028 38941492
Email : vanphongnhamemtggv@gmail.com
Web: https://hdmenthanhgiagovap.info

RSS
YouTube
YouTube