Gặp Chúa giữa lòng đời
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hành với mình là Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu hiện về!
Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại đề nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vậy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
* * *
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người ( ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Người (Mt 25, 40)… [“Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận” (ICr 12, 27);
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15);
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cr 10, 17).
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
– Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
– Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
– Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác.
[Anthony de Mello trong tác phẩm: “Như tiếng chim hót”]
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy… Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chừng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ là một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen
Tình yêu – Tính vững bền và sự đòi hỏi
Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu
“Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1 Ga 2,5).
Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư tưởng xem ra có vẻ khá rời rạc. Nội dung gồm chứa những huấn dụ mạnh mẽ, nhưng dường như những tư tưởng đó không được liên kết với nhau chặt chẽ cho lắm. Bài đọc ngắn trong phụng vụ hôm nay cho ta thấy điều này. Nó chất chứa nhiều tư tưởng nhưng đan nối với nhau có vẻ như không được khúc chiết và cũng chẳng mạch lạc. Tư tưởng thứ nhất, thánh tông đồ trình bày: Nếu chúng ta phạm tội, chúng ta có một Đấng Bào Chữa trước mặt Chúa Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô – Đấng Công Chính. Sau đó, Thánh Gioan viết tiếp “Những ai không tuân giữ giới răn của Ngài, đó là kẻ nói dối”. Cuối cùng Ngài khẳng quyết “Ai giữ lời Ngài, tình yêu của Thiên Chúa sẽ thực sự nên trọn hảo nơi họ”. Đây là ba tư tưởng xem ra chẳng liên thông gì với nhau cả.
Khi tôi đọc luận văn của các sinh viên và thấy họ viết như thế, tôi sẽ nói các em phải viết lại, diễn nghĩa rõ hơn và nhất là phải nối kết những tư tưởng lại một cách rõ nét hơn.
Nhưng dường như Thánh Gioan tông đồ muốn chúng ta tự làm công việc này cho chính mình. Chúng ta sẽ dễ dàng đan nối các tư tưởng lại thành một hệ thống khi chúng ta nhận ra rằng, chủ đề chính yếu mà thánh Gioan muốn nói tới, chính là Tình yêu. Trong Tin mừng thứ tư, chúng ta thấy rất rõ điều này. Nền tảng thần học căn bản mà Thánh Gioan muốn diễn đạt, nằm trong lời tâm huyết của Đức Giêsu: “ Như thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng phải mến thương nhau” (Ga 13,24). Hãy yêu thương, nhưng phải sao chép lại chính tình yêu của Chúa Giêsu, và đó không phải là một việc giản đơn dễ thực hiện. Tác giả Dostoyevsky trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov cũng đã viết một tư tưởng giống như thế:“Tình yêu được thực hiện bằng hành động là một điều gì rất khó khăn và gian nan, không như tình yêu chỉ có ở trong mơ tưởng”. Tình yêu thực sự phải vươn tới một cấp độ cao hơn, và nó chạm tới chân lý tận sâu thẳm nơi hữu thể con người chúng ta: Bởi vì chúng ta được dựng nên, chính là để yêu thương. Vì lý do này, tình yêu là một huyền nhiệm rất cao đẹp và trong sáng. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể tìm về căn tính và khám phá ra thiện ích đích thực ẩn sâu nơi mỗi người.
Vì vậy, tuân giữ Lời Chúa chính là chúng ta diễn bày tình yêu đối với Chúa, và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa được hiện thực tròn đầy nơi ta. Không tuân giữ giới răn của Chúa, chính là phủ nhận chân lý sâu xa ẩn tàng nơi mình, cũng như phủ nhận sự thật về mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện hữu trong thâm sâu cõi lòng của chính chúng ta.
Trên một bình diện, giới răn của Thiên Chúa được dàn trải qua nhiều dạng thức, từ việc sống ngay thật không gian dối như một nền tảng, đến việc thực hành những điều ngay chính trong cuộc sống đời thường. Nhưng trên một bình diện khác, tình yêu chỉ tóm kết vào một định thức giản đơn duy nhất: “Yêu mến là chu toàn lề luật”(Rm 13,8). Điều này dễ hiểu, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Nơi nào vắng bóng tình yêu, nơi đó không có Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta cho dù bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, nhưng nếu tâm hồn cằn cỗi tình yêu, sự thật sẽ không có nơi chúng ta.
Vì vậy, thực hành tình yêu không phải là một công việc đơn giản. Đó là một mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó chạm tới sâu thẳm hữu thể nơi con người mình. Tình yêu đích thực và tinh ròng không bao giờ là tình yêu nửa vời. Nhìn vào bản thân, chúng ta có thể nghiệm ra rằng trong khi tình yêu của Thiên Chúa rất mực hoàn hảo trong ta, thì nơi con người chúng ta, vẫn còn quá nhiều bất toàn và thiếu xót.
Tuy nhiên, khi chúng ta sa ngã, chúng ta không được tuyệt vọng và buông xuôi, để mặc cho sự dữ tung hoành. Bài đọc hôm nay trấn an và cho chúng ta biết rằng “Chúng ta có một trạng sư bào chữa trước mặt Chúa Cha”. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp, và Ngài sẽ là một luật sư “cãi hộ” cho chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm. Không phải thế đâu. Thánh Gioan muốn nói rằng Đức Giêsu đã tự nguyện hiến tế trên thập giá, và hiến tế đó diễn bày vai trò trạng sư của Ngài. Sự tự hủy ra không nơi Ngài là một quà tặng dâng lên Chúa Cha, thay cho chúng ta. Qùa tặng đó là cách thức diễn bày tình yêu của Chúa, một tình yêu vĩnh cửu và vững bền để cột trói chúng ta với Chúa Cha. Ơn cứu độ ở đây nói lên tính cách trạng sư biện hộ nơi Ngài, để phục vụ cho thiện ích của con người. Hiểu như vậy, chúng ta mới có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện tròn hảo qua hy lễ thập giá. Tình yêu đó được ban trao, và chính Thiên Chúa gọi mời chúng ta đi vào trong quỹ đạo tình yêu của Ngài để sống chân lý sâu xa từ sâu tận trong tâm hồn chúng ta.
Cuộc sống anh hùng không phải là một cuộc sống với những hành động hiển hách được mọi người biết đến và vỗ tay ca ngợi. Song, sự anh hùng thực sự chính là khi chúng ta cho dù sống thầm lặng, nhưng luôn kiên trung trong một tình yêu bền vững.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã tôn phong Ngài tước hiệu tiến sĩ hội thánh. Cuộc sống của Ngài khá dung dị và thầm lặng, nhưng lại rất sâu sa. Ngài đã thuật lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn như sau: “Đây là cách thái mà cuộc sống tôi đã trải qua. Tôi chẳng biết làm những công việc phi thường, những chỉ thực hiện những điều rất bình thường tựa như kết dệt cuộc đời tôi bằng những bông hoa đơn sơ và nhỏ bé. Tôi không bỏ qua bất cứ sự hy sinh bé nhỏ nào mà tôi có thể làm được, từ ánh mắt, từ lời nói, hay cử chỉ. Và tôi luôn thực hiện những hy sinh nhỏ bé ấy bằng một tình yêu lớn lao dành trao cho Chúa.[Mục Lục]
Cho họ xem tay và cạnh sườn
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức Giêsu và về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức Giêsu Kitô.
- Đức Giêsu cố chứng minh cho các tông đồ Ngài thực sự đang sống
Theo tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc.24, 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (Lc.24, 40).
Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
Thân phận con người, lúc này biết, lúc khác phân vân nghi ngờ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết lúc khác phân vân nghi ngờ. Vì vậy, Đức Giêsu sống lại, là điều rất mới đối với các tông đồ và con người. Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.
- Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh
Trong cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi… Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47). Kinh Thánh được một số người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân tộc Do Thái. Đức Giêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Đức Giêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Qua Đức Giêsu, con người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người. Các tạo vật đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó. Những nhân vật đáng kính trong lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, nhưng Đức Giêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Kinh Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người. Người ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó. Hôm nay, theo tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Giêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn về Đức Giêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.
III. Thật sự biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài
Niềm tin và cuộc sống phải đi liền với nhau. Niềm tin không chỉ là những điều một người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ. Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc.2, 17). “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).
Biết Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa, nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người. Cái “biết sống động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác… Tuy vậy trong thực tế, có nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng. Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực sự.
Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ. Các ngài đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã dám chết vì chính đạo. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho Thiên Chúa. Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự