Nghĩ về lao động – Lễ thánh Giuse thợ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày mùng 01 tháng 5, ngày Quốc Tế Lao Động, ngày lễ thánh Giuse thợ. Đúng thật là một cơ hội tốt đẹp để chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của lao động theo quan điểm kitô giáo.
Lần giở lại những chương đầu của Sách Sáng Thế, chúng ta thấy sau khi tạo dựng vũ trụ mọi loài mọi vật, “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn địa đàng, để họ trồng tỉa và coi sóc vườn” (St 2, 15). Như thế, con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, không những giống trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn giống trong sự sáng tạo nữa. Lao động là một phần trong tình trạng nguyên thủy của con người và đã có trước khi con người phạm tội. Do đó lao động không phải là hình phạt hay một lời chúc dữ. Lao động chỉ trở nên vất vả và cực nhọc khi con người (Adam và Eva) phạm tội phá vỡ tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với nhau.
Phải khẳng định rằng: Lao động có một vị trí danh dự, vì đó là nguồn đem lại sự phú túc, là công cụ hữu hiệu để chống lại sự nghèo đói, góp phần phát triển cá nhân, gia đình cũng như xã hội. Tất cả những thành tựu mà nhân loại đạt được trên thế giới hôm nay chính là thành quả của lao động. Ai cũng biết “lao động là vinh quang”, “bàn tay ta làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm” ( Trích “Bài ca vỡ đất”- Hoàng Trung Thông).
Phải chăng con người ngày nay đã và đang phá vỡ mối quan hệ hòa thuận với Thiên Chúa khi con người tàn phá thiên nhiên, làm ô nhiễm môi trường và suy kiệt tài nguyên? Phải chăng lao động đang trở thành gánh nặng khi đất đai khô cằn, nhiễm độc do thuốc trừ sâu, phân bón hóa học; cá tôm không sống nổi khi sông ngòi và biển cả bị ô nhiễm bởi các nguồn nước thải do chăn nuôi, bụi bùn, hóa chất phun màu; gây ô nhiễm khí quyển làm thủng tầng ôzôn?
Con người với lòng tham và sự tàn nhẫn độc ác, đã biến lao động thành nỗi hãi hùng cho người khác. Lao động có còn ở “vị trí danh dự”, là “vinh quang” hay không khi người ta bị bắt làm nô lệ, bị cưỡng bức lao động, bị lao động khổ sai nơi các trại tập trung, trại cai nghiện và các nhà tù ở nhiều nơi trên thế giới?
Toàn thể trái đất vang lên lời ca ngợi tôn vinh sự làm việc, thì Kitô Giáo nói gì, nghĩ gì về lao động, về nền văn minh trần thế, và về sự giầu có? Đức Giêsu dạy thế nào về việc làm và liên quan đến việc làm? Người thúc đẩy chúng ta làm việc hay nhìn vào đó với sự lo âu?
Phải khẳng định rằng, lao động là một phần chương trình tình yêu của Thiên Chúa; con người được mời gọi vun trồng và giữ gìn tất cả các thiện ích của thụ tạo, và như thế tham dự vào công trình tạo dựng! Lao động là yếu tố nến tảng đối với phẩm giá của một người. Lao động làm cho chúng ta được tràn đầy phẩm giá; giúp chúng ta giống Thiên Chúa, là Ðấng đã làm việc, đang làm việc, và luôn làm việc (x. Ga 5,17). Lao động cho chúng ta khả năng nuôi sống chính mình, gia đình mình, góp phần vào việc phát triển quốc gia, thăng tiến nhân loại.
Để phục hồi phẩm giá con người, lấy lại ý nghĩa của lao động, Con Thiên Chúa đã thân hành xuống thế, sinh ra trong một gia đình lao động. Phúc Âm thánh Máthêu kể rằng trong một lần Chúa Giêsu trở về thăm quê hương mình là Nagiarét và giảng trong hội đường, các người đồng hương kinh ngạc trước sự khôn ngoan của Người và hỏi nhau: “Ông ấy không phải là con bác thợ mộc sao?” (Mt 13,55). Chúa Giêsu đã bước vào lịch sử của chúng ta, Người đến giữa chúng ta, sinh ra từ Ðức Maria bởi công trình của Chúa Thánh Thần, nhưng với sự hiện diện của thánh Giuse, người cha hợp pháp, giữ gìn Chúa và dạy Chúa làm việc.
30 năm lao động với bàn tay của mình: người ta gọi Đức Giêsu là bác phó mộc và là nông dân. Chắc chắn Người đã lao động ở xưởng mộc Nagiaret, đã trồng những cây ôliu, cây nho, đã chăn chiên. Người biết giá trị của lao động để kiếm cơm ăn áo mặc. Biết đồng tiền là cần thiết và dĩ nhiên bàn tay Người đã tiếp nhận những đồng tiền người ta trả về cho những đồ vật Người làm, và đã chọn những tông đồ đầu tiên giữa các người đánh cá. Người đã nâng lao động chân tay lên khỏi tình trạng thấp hèn. Nếu Đấng Sáng Tạo đã không chê bai lao động, Đức Giêsu cũng không hờn dỗi việc làm, thì không có người nào trên thế giới lại phải lấy đó làm cực nhọc, xấu hổ. Đỉnh cao của giáo huấn Thánh Kinh về lao động là mệnh lệnh phải nghỉ ngơi ngày Chúa nhật, để con người không trở thành nô lệ cho lao động.
Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì con người càng khai thác triệt để lao động. Bên cạnh đó, lối sống thiên về hưởng thụ vật chất cũng thôi thúc con người lao động quần quật để đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng, hưởng thụ các phương tiện hiện đại, thỏa mãn các “nhu cầu ảo”. Một ngày người ta cố làm việc nhiều ca, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm luôn Chủ nhật và ngày lễ. Người ta thấy vui khi được tăng ca để kiếm thêm tiền. Và nại vào công việc, họ không có thì giờ để quan tâm, thăm viếng nhau, không có thì giờ cho việc cầu nguyện hay Kinh, Lễ. Phải chăng trong trường hợp này, con người đã “nô lệ tự nguyện” cho lao động và biến lao động thành “ngẫu tượng”?
Khiến tiền bạc lên ngôi ông chủ, con người làm việc hết lòng hết sức để mong chiếm hữu được thật nhiều tiền của vật chất. Danh vọng lên ngôi ông chủ, sai khiến con người tìm đủ mọi cách để đánh bóng mình trước mắt mọi người. Tình dục và những khoái lạc xác thịt cũng có lúc lên ngôi, chúng trói buộc con người trong cái vòng vây xiết chặt. Ông chủ của ta còn có thể xuất hiện dưới nhiều dáng dấp khác nhau: một chiếc điện thoại cao cấp, một chiếc xe hợp thời, một ngôi nhà tiện nghi… Giữa cuộc sống hiện đại, những ông chủ ấy đi vào cuộc đời ta, chiếm hữu tâm trí ta, thu hút toàn bộ năng lực của ta, dần dần biến thành mục đích sống duy nhất của đời ta. Ngạn ngữ có câu: tiền bạc là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ hà khắc.. Cái nguy hiểm không hẳn nằm ở tiền bạc, nhưng nằm con tim mỏng manh mà tham lam của con người. Một khi tiền bạc và những của cải vật chất lên ngôi, rất dễ làm con người hoán đổi vị trí và tôn tiền bạc lên làm ông chủ của mình. Hãy nhớ rằng, ngay từ thủa ban đầu của tạo dựng: “Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ”.
Mừng lễ Thánh Giuse Thợ, xin Ngài cầu thay nguyện giúp để mọi người biết mến yêu lao động, vì lao động giúp ta cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động. Lao động là cần thiết, nhưng chính Thiên Chúa mới là nguồn gốc của sự sống và là mục tiêu cuối cùng của con người.
Lạy Chúa, xin củng cố việc tay chúng con làm. Amen.
Một người chồng và một người cha
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Trong gia đình thánh tại Nagiaret, thánh Giuse vừa là một người chồng và vừa là một người cha. Tin mừng không cung cấp cho chúng ta câu nói nào của thánh Giuse, nhưng người cha nuôi Chúa Giêsu nói với chúng ta rất nhiều qua tất cả những gì ngài đã làm, đã sống và cách ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa đối với ngài.
Nhìn từ bên ngoài, vị hôn phu của Đức Maria dường như đã bị tước mất tương lai của mình là người nam. Nhưng ngài muốn vậy và thực hiện như vậy! Hơn nữa, thành tựu tuyệt vời của con người là hành trình của cuộc đời ngài. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu:
Đối với các vợ chồng, tình yêu của họ “được thỏa mãn” bằng cách đón nhận sự sống sẽ sinh ra. Họ sẽ đặt tên cho đứa trẻ và giúp đứa trẻ tìm đường và nhiệm vụ để sống. Người cha cảm thấy mình ngày càng phải trở thành người cha hơn trong việc phục vụ giáo dục con cái. Người mẹ cũng trở thành mẹ hơn khi sống với vai trò làm mẹ. Cặp đôi cùng nhau trở thành cha mẹ và nhiệm vụ của họ đưa họ đến gần nhau hơn. Nếu đây là ơn gọi tình yêu say đắm của cặp đôi, thánh Giuse và Đức Maria đã sống trọn vẹn trong tất cả các khía cạnh sâu sắc của ơn gọi này.
Nhiệm vụ của cha mẹ trước hết là làm cho con cái khám phá ra rằng chính Thiên Chúa là Cha. Người cha trợ giúp con cái về điều này vì biết rằng người cha trần gian vẫn có những bất toàn nào đó. Chúa Giêsu, trong suốt cuộc đời, đã duy trì một mối quan hệ hiếu thảo thân mật với Chúa Cha. Ngài gọi Chúa Cha là “Abba” như Ngài đã làm cho thánh Giuse. Nhiều lời nói của Chúa Giêsu trong cuộc sống công khai biểu lộ những gì Ngài đã trải nghiệm và nội tâm hóa với cha mình là thánh Giuse trong thời thơ ấu. Vì thế, vào buổi chiều trước cuộc khổ nạn, các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: “Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Cha”. Chúa Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy, là thấy Cha”. Lần khác, khi tranh cãi về ngày Sa-bát, Chúa Giê-su đã so sánh hành động của Ngài với hành động của Cha mình: “Cha Tôi luôn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Như vậy, thánh Giuse đã cho phép Chúa Giêsu khám phá sự thân mật trong mối quan hệ mình như là một Người Con yêu dấu của Chúa Cha.
Khi quan sát thánh Giuse lao động, Chúa Giêsu khám phá ra rằng công việc của con người có ý nghĩa và trở thành lời cầu nguyện. Tại Nazareth, gia đình thánh chắc chắn đã thực hành việc nghỉ ngày Sa-bát. Nhưng điều này chỉ đơn giản là kéo dài “công việc” thường xuyên tìm kiếm niềm vui cho con người và làm vinh quang Thiên Chúa là Cha. Tại Nagiaret, Chúa Giêsu cũng giống như những trẻ khác vì gười dân làng biết rất rõ về Ngài và gọi Ngài là “con bác mộc”. Thánh Giuse giúp con mình trở thành một người lớn, đó là theo dõi đời sống và sự lớn lên của Chúa Giêsu. Thánh Giuse luôn bênh cạnh Chúa Giêsu và qua các cử chỉ của Thánh Giuse, Chúa Giêsu tìm ra ơn gọi riêng của mình. Thông thường khi lớn lên, người con tiếp nối công việc của cha mình. Nếu không, người con giữ lại chứng từ về một cuộc sống của người cha, đó là vui mừng cộng tác vào công trình Sáng tạo của Thiên Chúa bằng công việc của đôi tay.
Chúng ta có thể tưởng tượng những lời khuyên mà thánh Giuse đưa ra cho con mình để học dần cách xử lý các công cụ, đó có thể là sự vận hành trơn tru công việc. Thí dụ, trong công việc thợ mộc, Chúa Giêsu có thể mắc sai lầm. Sai lầm không phải là một tội ! Khi quan sát cha mình lao động và môi trường thế giới bên ngoài, Chúa Giêsu tiến bộ trong nhận thức về sứ mệnh của chính mình. Một điều chắc chắn là Chúa Giêsu muốn dành một phần cuộc đời của mình như một nghệ nhân, sống và tận hưởng “công việc của con người” như chúng ta thường sống. Ngài sớm tìm thấy những hình ảnh đẹp nhất về tin mừng mà Ngài rao giảng: người trồng nho, người chăn chiên, bác sĩ, quản gia, thợ gặt…
Trong cuộc hành hương lên Gierusalem, cha mẹ Chúa Giêsu đã gặp khó khăn trước việc làm bất ngờ của con trai họ, như đã xảy ra với tất cả các bậc cha mẹ vào thời niên thiếu: con lạc mất! Sau biến cố này thánh Giuse có thể tự hỏi một ngày nào đó con mình sẽ rời khỏi nhà để gặp Gioan Tẩy giả tại sông Giodano…
Tại Nagiaret, Chúa Giêsu luôn gắn bó với công việc của Thánh Giuse. Có lẽ trong thời gian này, khi thánh Giuse qua đời, Chúa Giêsu lo thủ tục an táng cho cha…Và một ngày nào đó, Ngài rời khỏi xưởng thợ mộc để trở nên người thợ cứu độ toàn thể nhân loại
Mặc dù Tin mừng không nói nhiều về thánh Giuse, nhưng chúng ta nên nhớ rằng mọi người cha đích thực đều học cách ẩn mình đi khi con mình bay cao và bay xa. Ẩn mình đí không có nghĩa là phá vỡ, nhưng là tin tưởng vào cuộc sống của đứa con.
Ngày nay Thánh Giuse vẫn luôn hiện diện bên cạnh Con mình. Sự gần gũi kín đáo này rất quý giá đối với chúng ta! Thánh Giuse khi còn sống tại trần gian lo lắng bảo vệ gia đình Nagiaret thế nào, thì ngày nay trên thiên đàng Ngài cũng làm như vậy đối với gia đình Giáo Hội chúng ta. Ngài luôn thực hiện cách kín đáo, nhưng hiệu quả!Cùng với Đức Maria, thánh Giuse dạy: chúng ta có thể làm được những điều trọng đại qua các hoạt động khiêm nhường và nhỏ bé nhất trong đời sống hằng ngày!
Đặt tên cho con trẻ
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cô Maria đã đính hôn với ông Giuse và vẫn ở nhà với bố mẹ.
Phải đợi một năm sau cô mới về nhà chồng, mới làm lễ thành hôn thực sự.
Lạ thay cô lại mang thai khi chưa chung sống với Giuse.
Điều này hẳn làm Giuse bối rối và suy nghĩ nhiều.
Ông không thể tố cáo Maria, cũng không thể lấy cô ấy làm vợ.
Chỉ còn cách là ly dị Maria cách âm thầm kín đáo.
Nhưng Thiên Chúa không nghĩ thế.
Ý định của Ngài được báo với Giuse trong giấc mộng.
“Đừng sợ đón Maria vợ ông về,
vì thai nhi được cưu mang nơi bà là do Thánh Thần” (c. 20).
Giuse hay bị đánh thức vào lúc ông cần nghỉ ngơi.
Phải có lòng tin thế nào Giuse mới dám nhận Maria đang mang thai làm vợ.
Tin thai nhi được Maria cưu mang là “do Thánh Thần” (c. 20),
điều đó không dễ dàng, vì chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự.
Tin còn là từ bỏ những toan tính và định tâm của mình (cc.19-20)
để vâng phục ý định bất ngờ và khó hiểu của Thiên Chúa.
Điều khiến cho Giuse có một chỗ đứng độc đáo trong lịch sử cứu độ
đó là việc ông đón Maria đang mang thai về nhà mình làm vợ chính thức.
Đơn giản là ông chấp nhận làm đám cưới với Maria.
Đón Maria làm vợ cũng là nhận cả thai nhi trong bụng mẹ làm con.
Giuse là cha khi ông chấp nhận đứng ra đặt tên cho con trẻ (c. 21).
Ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu Giuse cứ muốn âm thầm ly dị Maria?
Giuse đã là chỗ dựa sống còn của ơn cứu độ, là nơi nương tựa của Mẹ và Con.
Nhờ Giuse, Cô Maria không bị mang tiếng ngoại tình,
và bé Giêsu không phải là con hoang, nhưng là con thuộc dòng Đavít.
Đức Giêsu sau này có thể công khai và tự tin đến với dân Ítraen.
Thánh Giuse đã lập gia đình, đã có một mái ấm với người mình yêu.
Ngài sống như một người chồng, người cha bình thường.
Nhưng bên trong lại là những mầu nhiệm.
Ngài không thật sự là chồng của Maria, cũng không thật sự là cha của Giêsu.
Maria không còn là đối tượng để Giuse mê đắm và chiếm hữu,
vì Maria đã thuộc trọn về Thiên Chúa, cả xác lẫn hồn.
Maria là một mầu nhiệm, Giêsu cũng là một mầu nhiệm.
Giuse sống bên những mầu nhiệm, nên chính đời ngài cũng trở thành mầu nhiệm.
Phải đến với mái ấm ở Nadarét ta mới thấy mầu nhiệm ẩn trong cái bình thường.
Chỉ ai biết nhìn thì mới thấy sự thánh thiện phi thường ở đó.
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa. Amen.
Thánh Giuse, Người Anh Hùng Thầm Lặng
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Gioan Phaolô II viết trong “Thông điệp Đấng giữ gìn Chúa Cứu Thế” : “Một sự thinh lặng cho thấy được một cách đặc biệt con người nội tâm của thánh Giuse. Các sách Tin mừng chỉ nói đến những gì “thánh Giuse làm”, nhưng cũng giúp chúng ta khám phá được “trong những hành động” luôn luôn thấm nhuần sự thinh lặng của Người có một bầu khí chiêm niệm sâu xa. Hằng ngày thánh Giuse tiếp xúc với “mầu nhiệm được giấu kín từ bao thế hệ”, mầu nhiệm đã “cư ngụ” dưới mái gia đình của thánh Giuse” (số 25).
Thinh lặng là nét đẹp của chay tịnh. Thánh Giuse yêu thích sự im lặng, ngài là con người của Mùa Chay. Lễ Thánh Cả Giuse được Phụng vụ Giáo hội mừng vào giữa Mùa Chay thánh. Mùa Chay mời gọi kitô hữu sống đời sống nội tâm. Khởi đầu Mùa Chay, Chúa Giêsu dạy, khi bố thí đừng để tay phải biết việc tay trái làm, khi ăn chay hãy xức dầu thơm và khi cầu nguyện hãy vào phòng đóng cửa lại. Ba việc đạo đức truyền thống cần phải được thực hiện với tinh thần nội tâm, âm thầm chỉ có Cha trên trời biết mà thôi.Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, chính bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thầm lặng.Trong Kinh Thánh, không hề nghe được một câu nói nào thốt ra từ chính môi miệng của ngài.
Cuộc đời của thánh Giuse qua Phúc Âm là một cuộc đời gắn liền với gia đình thánh, một cuộc đời có nhiều sóng gió bất ngờ. Thế nhưng, trên nền những sóng gió ấy, người ta gặp thấy một Giuse hoàn toàn lặng thầm;thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe rồi suy niệm và nhận ra ý Chúa nên mau mắn thi hành.
1/ Lắng nghe tiếng Chúa và mau mắn thi hành
Trong dịp hành hương tại Nagiarét quê hương của Thánh Gia, chúng tôi thật ngạc nhiên khi thấy ngoài đường phố, trong cửa hiệu buôn bán, thậm chí ngay ở quầy tiếp tân của khách sạn, tuyệt nhiên không có lấy một bóng người phụ nữ. Họ ở đâu, không ai biết rõ, chỉ biết chắc rằng tất cả mọi sinh hoạt công khai ngoài mặt phố đều do đàn ông đảm trách. Tôi thắc mắc, và hướng dẫn viên đã giải thích rằng : đây là xã hội của đàn ông, đàn bà không có quyền ăn nói, thậm chí không có quyền xuất hiện. Trong một nếp sống như thế, lẽ ra Giuse có quyền và có bổn phận phải nói, nhưng một khi ngài đã chọn thinh lặng, ắt hẳn sự thinh lặng ấy phải có một giá trị đặc biệt. Vâng, đó là đi vào sa mạc tâm hồn, đó là đường vào của một tình yêu. Cha Philippon, op, viết : “Ai yêu mến sự thinh lặng sẽ được Thiên Chúa dẫn tới thinh lặng của mến yêu”.
Đọc Phúc Âm, ta thấy Thánh Giuse có tâm hồn mở ra với tiếng gọi của Thiên Chúa.Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ biết là ý Thiên Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành.
-Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm.Người Hôn Thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định : “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19).Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24).
– Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày.Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14).
– Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng.Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi.Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21).
Trước Thánh ý Thiên Chúa, Giuse thinh lặng lắng nghe và vâng phục chu toàn.Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc1,38). Thinh lặng lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững.Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, Ngài nghe và vâng theo rồi mau mắn thi hành. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình.
2/ Thầm lặng đồng hành cùng gia đình Nazareth.
Từ khi đưa Đức Maria đang mang thai về quê hương Bêlem để khai sổ kiểm tra cho đến khi định cư tại Nazareth, Thánh Giuse luôn bảo vệ gìn giữ gia đình. Về quê quán, đường xa xôi cách trở. Khi đến nơi “Maria đã đến ngày sinh nở”, và phải sinh con “nơi hang đá bò lừa” vì “hai ông bà không tìm được nhà trọ” (Lc 2,7). Chỉ ít lâu sau được lệnh “Thiên sứ báo tin phải lên đường, đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,13). Vâng theo ý Chúa, “ngay đang đêm, Giuse chỗi dậy đem con trẻ và mẹ Người lên đường đi Ai cập” (Mt 2,14). Định cư tại Ai cập cho đến khi nhận được lệnh thiên sứ “hãy đưa con trẻ trở về quê hương”, Giuse “lại chỗi dậy đưa gia đình về lại quê hương Nagiaret”. Khi dâng con trẻ vào đền thờ, ông Dacaria đã nói lên “bài thánh ca chúc tụng” (Lc 1, 67-79), còn Giuse vẫn lặng thầm, đó là một “bài thánh ca không lời”.
Cùng với Đức Maria, ngài dâng Con trẻ Giêsu trong đền thờ (Lc 1, 67-79). Hành hương cùng gia đình lên Giêrusalem Lc 2,41-42). Khi gặp lại Chúa Giêsu trong đền thờ, Thánh Giuse cũng giữ im lặng đang lúc tâm hồn ngài đi từ nỗi lo đến niềm vui (Lc 2,43-50).
Bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua. Ngài là cột trụ gia đình, kiên nhẫn làm việc đổ mồ hôi nước mắt, bằng sức lao động để nuôi sống và đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Trong cuộc sống đời thường tại Nadarét, Thánh Giuse thầm lặng lao động. Tin mừng không nói gì về cuộc sống của ngài tại Nadarét. Điều duy nhất biết được là ngài làm nghề thợ mộc và ngay cả chi tiết nhỏ này nữa, ta cũng chỉ biết nhờ những người đồng hương gọi Đức Giêsu là “con bác thợ mộc”(Mt 13,55) mà thôi. Rồi ngài qua đời khi nào và được chôn táng ở đâu nào có ai hay.
3/ Thánh Giuse, người anh hùng thầm lặng
Trong thảm họa diệt chủng của Đức Quốc Xã gây ra ở Chiến Tranh Thế Giới thứ I, Nicolas Wintơn đã giải cứu được 669 đứa trẻ Do thái từ Tiệp Khắc chuyển qua Anh Quốc và tìm cho chúng những người cha mẹ nuôi. Việc ấy diễn ra âm thầm nên báo chí chẳng hề hay biết. Ông Wintơn cũng chưa hề thổ lộ với ai, kể cả vợ mình.
Sau 50 năm, người ta tình cờ tìm thấy một cuốn sổ có ghi lại sự việc, cùng danh sách những đứa trẻ ấy. Ông Wintơn được mời đến một chương trình truyền hình, mà ở đó, trong sự ngạc nhiên, ông đã được gặp lại những đứa trẻ Do thái năm xưa, bây giờ cũng đã thành đạt và lớn tuổi. Họ quy tụ lại để bày tỏ lời tri ân đến vị ân nhân cứu mạng của mình, một người anh hùng thầm lặng.
Khi nghe câu chuyện về ông Wintơn, tôi nghĩ về Thánh Giuse, một vị thánh thầm lặng, nhưng lại đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc lịch sử cứu độ. Ngài là bạn trăm năm của Đức Maria và là cha nuôi Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong tất cả các Tin mừng, người ta thấy ngài luôn luôn là một vị anh hùng thầm lặng.
Sự vâng phục trước thánh ý Thiên Chúa chính là sự “công chính” mà Kinh Thánh đã luôn ca ngợi (x. Tv 37,29; 92,12; 112,4). Công chính không chỉ là chính trực, thánh thiện mà còn là kính sợ Chúa và vâng theo thánh ý Người. Cũng trong thầm lặng, ngài đã chăm sóc Đức Mẹ sinh nở trong hang đá lạnh lẽo, rồi cũng hân hoan vui sướng khi chứng kiến ca đoàn các Thiên Thần mừng hát Chúa giáng sinh. Rồi cũng trong thầm lặng, ngài đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ người đi lánh nạn ở Aicập lúc đêm khuya cô quạnh, trải qua hành trình đầy khó khăn gian khổ…
Suốt cuộc đời sống đầy sóng gió bên hai Đấng Thánh, Giuse vẫn lặng lẽ, chẳng có khoe khoang khi được hiển hách, không than van lúc khốn cực, lầm than…
Chiêm ngắm cuộc đời thánh Giuse, càng thấy rõ ngài hẳn là một người hùng, với đặc tính giống như những gì ông Andrew Carnegie nghiên cứu được. Carnegie đã dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu các vị anh hùng, để rồi nhận ra một điều thú vị: các anh hùng thường không thấy hành động của họ là “anh hùng” chút nào cả. Thay vào đó, những người anh hùng thường khiêm tốn tin rằng họ đã làm những gì mà bất kỳ ai khác cũng sẽ làm, mặc dù đó là việc dám đánh đổi cuộc đời của mình vì tha nhân, và đặc biệt hơn là dám bất chấp tất cả để thực thi ý Chúa. Bởi thế, họ chẳng bao giờ khoe khoang khi làm được những điều lớn lao, cũng như chẳng than thở khi gặp khó khăn, thử thách.
Thật đúng như câu Lời Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”(Mt 23,12), thánh Giuse đã khiêm tốn hạ mình trong thầm lặng để giờ đây được tôn phong hiển hách: Thánh nhân là bổn mạng của toàn thể Giáo hội hoàn vũ và cách riêng là của Giáo hội Việt Nam (x. Tập san Legio Mariae tháng 3.2019).
Sách Huấn ca dạy: “Có kẻ thinh lặng vì chẳng biết nói chi. Có kẻ thinh lặng để chờ thời. Có kẻ thinh lặng mà lại biết điều. Có kẻ thinh lặng mà được kể là khôn ngoan”. (Hc 20,6.1.5). Có thể nói sự thinh lặng khôn ngoan nơi thánh Giuse có hai cơ năng hoạt động mạnh nhất là: tai nghe và tay làm. Nghe Lời Chúa để thi hành. Ngài là tôi tớ trung thành và khôn ngoan, và có một lòng tin mãnh liệt vào Thiên Chúa. Người hoàn toàn tuân phục, hoàn toàn để cho Chúa hành động và mau mắn làm điều Chúa muốn. Tổ phụ Abraham đã làm như thế. Mẹ Maria đã làm như thế. Thánh cả Giuse đã làm như thế. Ðó là những kiểu mẫu tuyệt với về lòng tin tưởng, phó thác.
Chiêm ngắm cuộc đời thánh Cả Giuse, chúng ta học được giá trị của bài học tĩnh lặng. Trong thinh lặng, một mạc khải có thể được tỏ lộ : Thiên Chúa “nói” với con người điều mà Người muốn, một sứ mạng, một chương trìnhThiên Chúa dự tính trao cho con người. Thinh lặng để lắng nghe, thinh lặng để thấu hiểu, thinh lặng để thực thi Ý Chúa.
Thánh Cả Giuse là vị thánh của thinh lặng. Thiên Chúa nói với ngài ngay trong thinh lặng, chúng ta học nơi thánh Giuse và sẽ khám phá trong thinh lặng khả năng để nói với Chúa về Chúa.
Người công chính
Lm. G.B. Trần Văn Hào SDB
Nói về Thánh Giuse, chúng ta dễ có nguy cơ ngụy tạo ra một Thánh Giuse theo trí tưởng tượng hay theo cảm tính đạo đức, hơn là chiêm ngắm hình ảnh Thánh Giuse được Kinh thánh nói đến. Thực ra, chúng ta biết rất ít về Ngài, ngoài trừ một vài chi tiết được Thánh sử Matthêu và Luca ghi lại, liên quan đến thời thơ ấu của Đức Giêsu. Tuy nhiên, thánh Matthêu đã quy tóm sự thánh thiện của Thánh Giuse vào một tước hiệu rất đơn giản : ‘Người Công chính’ (Mt 1,19).
Dưới góc độ sử học, chắc chắn chúng ta không thể biết nhiều về Thánh Giuse, ngoại trừ chi tiết cho biết Ngài là con của Giacóp và là chồng của bà Maria, Mẹ Chúa Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô (x.Mt chương 1). Ngoài ra, những điều khác được viết ra nói về Ngài đều gắn kết với cuộc đời của Chúa Giêsu tại Nazareth thủở thiếu thời. Chúng ta không biết Thánh Giuse sinh năm nào, sống được bao nhiêu tuổi và qua đời ở đâu. Vả lại, lúc sinh thời, Thánh Giuse cũng không để lại một trước tác nào để các học giả có thể nghiên cứu linh đạo của Ngài. Các trang Tin mừng tuyệt đối không ghi lại bất cứ câu nói nào của Thánh nhân. Thánh Giuse ít nói, nhưng chắc chắn không phải Ngài bị câm điếc hay mắc chứng trầm cảm. Cũng chẳng phải Ngài là một con người lầm lì hoặc ít giao tế xã hội. Trên hết, sự thinh lặng của Thánh Giuse gắn liền với tước hiệu ‘Người Công chính’ diễn bày một tư thế nội tâm sâu xa, và Giáo hội vẫn sánh ví Ngài như một ‘Người tôi tớ trung thành’. Xin chia sẻ một vài suy tư để chúng ta chiêm ngắm sự thánh thiện của Thánh nhân như một mẫu gương sống nội tâm cách sâu xa.
Thinh lặng để nghe: Nhận ra tiếng Chúa nói.
Thánh Matthêu trình thuật 2 sự kiện: Thần sứ nói với Giuse trong giấc mộng để đón Đức Maria về nhà, sau đó thần sứ cũng báo mộng cho Giuse hãy đưa dẫn cả gia đình trốn sang Ai Cập để lánh nạn (x Mt chương 1 và 2; x Lc chương 2). Giữa đêm khuya thanh vắng, Giuse đã nghe được tiếng Chúa ngỏ trao. Văn phong thời xưa khi diễn tả ‘Thiên Thần báo mộng’, chính là diễn bày sự kiện Thiên Chúa đang nói với con người. Ngày xưa, ngôn sứ Elia đã nghe tiếng Chúa nói trên núi Khô-rép không phải trong tiếng ầm ầm của gió bão, động đất hay những tiếng gầm rú của núi lửa phun trào, nhưng Chúa chỉ nói trong tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ (1 Vua 19,11-13). Cậu bé Samuel cũng nghe tiếng Chúa gọi giữa đêm khuya thanh vắng khi cậu ngủ trong đền thờ với thầy cả E-li. Cũng thế, trong đêm trường tĩnh lặng, Thánh Giuse đã nghe được tiếng Chúa nói và mau mắn thi hành. Đây là thái độ nội tâm mà thánh Giuse đã thể hiện : Thinh lặng để nghe Chúa nói với chính mình. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “Chúng con hãy năng lắng nghe Lời Chúa, nhưng không phải nghe bằng đôi tai của thân xác, mà nghe với đôi tai của cõi lòng”. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta đang bị vây kín bởi quá nhiều tiếng động ồn ào, đan xen giữa những sinh hoạt đời thường. Những âm thanh hỗn độn đó cản che đôi tai và làm nhiễu sóng những sứ điệp mà Chúa đang muốn gửi đến. Đây không phải là âm thanh của những loa nhạc mở hết công suất, hay của những tiếng xe máy gầm rú chạy ngoài đường phố. Trên hết, đó là những tiếng động xào xạc của tiền bạc, những ồn ào của lạc thú hay những bon chen kiếm tìm danh vọng. Những tiếng động ấy như một thứ ngáng trở mà ma quỷ giăng ra để che chắn lỗ tai chúng ta trước tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Chúa dựng nên con người chỉ có một cái miệng để nói nhưng có hai cái tai để nghe. Chúng ta hãy bắt chước Thánh Giuse, tập sống thinh lặng nội tâm để nhận ra những tín hiệu mà Lời Chúa đang vang vọng lại nơi tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
Thinh lặng để nói: Đối thoại với Chúa.
Nếu chúng ta hiểu rằng cầu nguyện là đối thoại với Chúa, thì Thánh Guise đã nêu bật cho chúng ta mẫu gương về phẩm chất cao đẹp này. Ngài thinh lặng để nói với Chúa. Nơi gia đình Nazareth, Chúa Giêsu trở thành tâm điểm mà Thánh Giuse cũng như Đức Maria luôn quy hướng về. Ngài thinh lặng để nghe Chúa nói và cũng thinh lặng để nói với Chúa. Cha Luke Oysinger, tu sỹ dòng Biển đức, đã phân định việc cầu nguyện với 4 bước cơ bản. Bước thứ nhất, chúng ta đến gặp Chúa, tôi nói và Chúa nghe. Bước thứ hai quan trọng hơn, là Chúa nói còn tôi lắng nghe. Giai đoạn thứ ba,việc cầu nguyện trở nên sâu xa hơn, là chúng ta đến với Chúa, cả hai đều thinh lặng và cùng lắng nghe. Cuối cùng, sự viên mãn của tiến trình cầu nguyện là chúng ta đến với Chúa, không ai nói, chẳng ai nghe, cả hai đi vào sự thinh lặng trong hiệp thông cách trọn vẹn. Sự viên mãn này chỉ đạt đến khi chúng ta trở về với Chúa và an hưởng vinh quang vĩnh cửu trên quê trời, lúc đó chúng ta sẽ gặp Chúa ‘diện đối diện’ như thánh Phaolô đã từng diễn tả. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cần tập thinh lặng để nghe Chúa nói, hơn là chúng ta chỉ độc thoại và nói một mình. Thánh Giuse đã thể hiện tư thế nội tâm này và nêu gương cho chúng ta. Ngày xưa, Chúa Giêsu cũng mời gọi các học trò hãy rút lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút (Mc 6,31). Đây không phải là sự nghỉ ngơi của thân xác, nhưng trên hết là sự nghỉ ngơi với tư thế nội tâm để nhìn lại những biến cố đã qua, nói với Chúa và lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta.
Trong cuộc sống thường ngày, người ta vẫn dùng hai loại hình ngôn ngữ để giao tiếp, đó là ngôn ngữ bằng lời (verbal words) và ngôn ngữ không lời (non-verbal words). Khi hai người yêu nhau say đắm, những ngôn từ trên môi miệng sẽ trở nên thừa thãi. Trong tình yêu, ngôn ngữ của trái tim và đôi tai của cõi lòng vẫn là những phương thế tuyệt hảo nhất. Thánh Giuse đã sử dùng loại hình ngôn ngữ này để nói, để đối thoại với Chúa.
Thinh lặng để phục vụ : Như một đầy tớ trung thành
Thánh ký Matthêu ghi lại rằng, sau khi được Thiên sứ mách bảo, Giuse đã đón Đức Maria về nhà mình (Mt 1,24). Cũng vậy, sau khi nghe Thiên sứ truyền lệnh, Thánh Giuse liền trỗi dậy, đang đêm đem Hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập (Mt 2, 24). Thánh Giuse luôn sẵn sàng lên đường để thực thi điều Thiên Chúa muốn. Ngài không quản ngại nhọc nhằn hay gian nan. Cũng vậy, trong cuộc sống âm thầm tại Nazareth, Thánh nhân cũng đã phải bươn chải mưu sinh với nghề thợ mộc. Điểm mấu chốt, không phải Ngài làm việc để kiếm cơm áo gạo tiền, nhưng để phục vụ Chúa Giêsu và Đức Maria. Vì thế, Giáo hội vẫn sánh ví Thánh Giuse như một người tôi tớ trung thành. Người đầy tớ trong xã hội khi xưa là người luôn biết làm theo ý chủ, lúc nào cũng xắn tay áo lên, thắt lưng cho gọn để làm việc không mỏi mệt, và chẳng bao giờ đòi chấm công hay nhận thù lao. Chúa Giêsu cũng đã từng nói về người Pharisêu : “Họ nói mà không làm”. Còn thánh Giuse thì ngược lại, Ngài làm nhưng không nói. Trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Thessalonica, thánh Phaolô cũng đưa ra lời trách móc : “Chúng tôi nghe nói trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào” (2 Thes 2,11). Hiện trạng đó vẫn thường hay xảy ra trong các cộng đoàn giáo xứ hay ngay cả nơi các cộng đoàn tu sỹ. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng nhắc nhở : “Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy”, nghĩa là Giáo hội cần có những con người xả thân làm việc cách cụ thể để phục vụ hơn là chỉ đứng trên bục giảng để nói bằng lý thuyết. Chúa Giêsu đã từng cảnh báo : “Không phải cứ mở miệng kêu lạy Chúa lạy Chúa là được vào nước trời cả đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ý Chúa mà thôi” (Mt 7,21).
Giáo hội chiêm ngắm hình ảnh thánh Giuse lao động không phải nhằm đề cao những giọt mồ hôi nhễ nhại nơi xưởng mộc. Giáo hội muốn chúng ta học hỏi gương mẫu cần cù và miệt mài của Thánh nhân trong việc phục vụ Chúa Giêsu và Đức Maria tại Nazareth.
Kết luận
Linh đạo mà thánh Giuse thể hiện không phải được viết lại trên một vài trang giấy vô hồn, nhưng linh đạo thánh thiện ấy đã hiển thị rõ nét nơi cuộc sống của Thánh nhân ở Nazareth mà các sách Tin mừng thuật lại. Một cuộc sống rất bình dị và lặng lẽ nhưng ngập tràn tình yêu nồng nàn dành cho Chúa Giêsu và Đức Maria. Thánh Giuse tuy không nói một câu nào trên đầu môi cửa miệng, nhưng Ngài vẫn đang nói với chúng ta rất nhiều qua mẫu gương thánh thiện của Ngài. Ngài là ‘Người Công chính’ không phải theo nghĩa hẹp, tức là chỉ tuân giữ lề luật cách nghiêm túc, nhưng Thánh nhân đã hoàn thiện lề luật một cách trọn hảo qua tình yêu nồng cháy dành cho Chúa Giêsu và Đức Maria.
Lạy Thánh Giuse Đấng Công chính, xin cầu cho chúng con.
Thánh Giuse – Người gia trưởng gương mẫu
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có câu:
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gian khổ cuộc đời không ai sánh bằng cha”.
Thực vậy, người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước biết bao giông tố của cuộc đời. Người cha còn là núi thái sơn cho con cái nương tựa, là cây cao bóng cả mang lại bóng mát cho gia đình. Tình của người cha có thể không dạt dào, nhưng công ơn của người cha thật cao như núi thái sơn cao vời. Người cha đã gánh trên vai mình trách nhiệm nuôi dưỡng, bao bọc chở che cho cả gia đình. Người cha có trách nhiệm sẽ quên bản thân mình để gầy dựng gia đình mỗi ngày một tốt hơn. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình. Chỗ đứng của người cha trong gia đình thật cần thiết, cần thiết đến nỗi người ta bảo rằng: “Còn cha gót đỏ như son – Mất cha, gót mẹ gót con đen xì”. Và cũng thật bất hạnh cho những ai không có cha, vì “con không cha như nhà không nóc”.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một ngưởi cha mẫu mực cho các gia trưởng: đó chính là Thánh cả Giuse. Ngài thực sự là một gia trưởng mẫu mực cho các người làm cha. Ngài đã gánh trên vai mình một gia đình đầy bất trắc truân chuyên. Một gia đình mà ngay từ đầu đã gặp bất trắc khi mà Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Dầu Giuse không hiểu hết. Nhưng tấm lòng của Ngài thật quảng đại và bao dung. Ngài đã vui lòng đón nhận Maria về nhà làm bạn theo thánh ý Chúa. Khi sinh con, có lẽ Ngài cũng vất vả tìm cái nôi thật ấm cúng giữa trời đêm sương tuyết nơi đồng hoang mông quạnh. Belem năm đó thật lạnh. Cái lạnh của thời tiết và cái lạnh của tình người đã gây nên những khó khăn, khốn khó chồng chất. Nhưng Giuse đã giúp cho gia đình vượt qua. Ngài đã làm tất cả để mang lại hơi ấm cho hài nhi Giê-su. Ngài không buông xuôi trước khó khăn. Ngài luôn can đảm để vượt qua. Cuộc đời bể dâu đâu dừng lại ở đó. Gian nan tư bề như muốn phá nát gia đình của Ngài. Hê-rô-đê ra lệnh truy nã hài nhi Giê-su. Ngài đã chẳng quản ngại ra đi trong đêm thâu, băng đồi lội suối, đến lánh nạn nơi đất khách quê người. Dầu nơi đất khách quê người hay khi đã trở về quê hương, Thánh Giuse luôn tận tụy hy sinh để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình. Bằng đôi bàn tay chai sần, bằng ý chí kiên cường và bằng tấm lòng hy sinh tận tụy Ngài đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Lâu nay người ta vẫn nghĩ gia đình thánh gia là gia đình khó nghèo. Cái nghèo đói của thiếu thốn tư bề luôn bủa vây đến gia đình thánh gia. Thực sự không phải vậy. Vì gia đình thánh gia có người cha tận tụy lao động, có người mẹ chăm chỉ may vá, có người con luôn phụ giúp cha mẹ, chắc chắn không thể là gia đình khó khăn. Nhưng chắc một điều là họ sống khó nghèo. Họ không vì tiền mà tham lam, mà bán rẻ lương tri. Họ không hà tiện để làm giầu cho bản thân. Họ không phóng túng tiêu pha xa xỉ. Họ luôn sống thanh bần, đạm đạc. Họ sống khó nghèo để tâm hồn thanh thoát khỏi những ràng buộc của danh lợi thú trần gian. Họ đã sống trọn vẹn mối phúc của sự khó nghèo vì Nước Trời chính là gia nghiệp của các Ngài.
Ước gì những người làm cha hôm nay biết noi gương thánh Giuse để trở nên chỗ dựa vững chắc cho gia đình. Ước gì những người làm cha luôn tận tụy hy sinh để xây dựng gia đình mình thắng tiến và bình an. Ước gì các người làm cha luôn quảng đại bao dung để tha thứ cho những lỗi lầm của con cái và kiên nhẫn trong việc giáo dục các con.
Nguyện xin thánh Cả Giuse cầu bầu cùng Chúa cho các người cha luôn tìm được niềm vui trong những hy sinh vì hạnh phúc gia đình. Nguyện xin Chúa nhìn đến bao hy sinh vất vả của những người cha đã tiều tụy theo năm tháng vì gánh nặng của gia đình, vì hạnh phúc của đàn con. Xin Chúa ban cho các ngài được nhìn thấy phúc đức cao dày của các ngài nơi những người con hiếu thảo thành tài. Amen.
Thánh Giuse Bạn Hiền Trinh Nữ, Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày 19 tháng 3, Hội Thánh hoàn vũ hân hoan mừng kính thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính của mình cách trọng thể. Truyền thống bình dân Kitô giáo dành trọn tháng Ba cho thánh Giuse người của Thiên Chúa và đem lòng sùng kính ngài cách đặc biệt.
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”. Chính Đức Giáo Hoàng Pio IX đã công bố sắc lệnh Quemadmodum Deus (08.12.1870), nhận thánh Giuse làm quan thầy cả Hội Thánh, hàng năm dành riêng hai lễ kính ngài vào ngày 19 tháng 3 và mùng 01 tháng 5.
Bạn hiền Trinh Nữ
Tin Mừng ghi lại : “ Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22) ; “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ) ; “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ) ; cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh.
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nagiaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, người đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2 , 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
Xin thánh Giuse phù hộ cho các người cha
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền : “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng”. Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong xã hội hiện đại, vai trò người chồng, người cha trong gia đình được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn hai nhiệm vụ cách song song được. Có người nói rằng là người chồng tốt, đương nhiên phải là người cha tốt. Tuy nhiên, một người cha tốt chưa chắc đã là người chồng tốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho các người làm cha trong gia đình, để họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
Suy niệm lễ Thánh Giuse
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Giuse, người công chính
Khi mừng lễ thánh Giuse, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giuse, người sống cách đây 2000 năm có còn thích hợp với thời đại chúng ta không? Không biết thánh Giuse, Đấng đã coi sóc một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn những con người phàm trần không?
Tin Mừng hôm nay nói thánh Giuse là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giuse, ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính. Công chính trước hết là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi công chính là không dám nhận những gì không phải của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria mang thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria. Nhưng theo các nhà chú giải thời mới thì thánh Giuse định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
Công chính là chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu, hãy nhìn cảnh Thánh Gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu, ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa bảo thức dậy trốn sang Ai cập, ngài cũng thức dậy lên đường ngay tức khắc.
Những nhiệm vụ của thánh Giuse xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh Giuse vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm vụ nào khác. Chẳng hạn sau này các Tông đồ được mọi người kính phục, thánh Giuse vẫn không ghen tị và đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.
Sau cùng, công chính là trung tín với nhiệm vụ. Thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ gìn giữ Đức Maria và Đức Giêsu, gìn giữ gia đình, ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Maria hạ sinh Đức Giêsu. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải vất vả bồng bề Đức Giêsu chạy trốn sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse kiên trì tìm kiếm khi Đức Giêsu đi lạc 3 ngày trong Đền thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh, không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giuse thật là người công chính.
Ngày nay thánh Giuse vẫn hợp thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ ước của con người. Vì thế giới ngày nay đang thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt tiền của, danh dự của người khác. Vì thiếu công chính mà người ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng giả. Vì thiếu công chính nên người ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản, phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.
Các gia trưởng nhiều khi lười biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với vợ con. Sự trung tín ngày nay đang là một vấn đề lớn, người ta bất tín, lừa đảo, gian dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán, người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ người thân.
Nên thánh Giuse vẫn còn là gương mẫu cần thiết cho người thời nay. Những đức tính của ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.
Thánh Giuse, người đi trong đêm đen
Trong các bức tranh vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Đức Giêsu trốn sang Ai cập. Bầu trời đen thẫm. Một vài tia chớp loé lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh gia, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Đức Maria bồng Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm, mà còn đẹp về ý nghĩa, Ngắm bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời thánh Giuse: một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin. Ngài đã sống chung với Đức Maria và Đức Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Đi bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối. Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đống hành cho đến mãn đời. Thánh Giuse giống như người lính canh được cấp trên trao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quý giá. Nhưng cũng có thể là chiếc hộp rỗng không. Không biết. Nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Maria, người bạn yêu quý. Trước những mầu nhiệm cao cả, Đức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người vẫn là một mầu nhiệm ẩn dấu và Đức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần. Mà chỉ là những tiếng vọng mô hồ, giữa đêm khuya, trong giấc ngủ. Vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Im lặng đáng sợ. Nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu khi những gì thân thiết nhất trong đời lại trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã thân cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Trong cả bốn Phúc Âm, không thấy ghi lại lời nói nào của thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến, cũng chỉ để chê bai, dè bỉu, để hạ thấp thân phận của Đức Giêsu: “Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện”. Ngài bị lãng quên vì luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Đức Maria. Sách Tông Đồ Công Vụ kể về Đức Maria. Nhưng từ khi Đức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách. Thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếâu ớt. Nhưng những thử thách, khốn khó về thể lý dù cam go thế nào cũng còn chịu được. Những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà chấp nhận được. Sao này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dầy hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách có nặng nề, Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardin nói: người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm: “Ban đêm, người bơi lội vùng vẫy trong làn nước biển có chất lân tinh, làm ánh sáng loé lên chung quanh mình”.
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm loé lên chung quanh Ngài những làn ánh sáng soi bước chân Ngài đi.
Đi trong đêm tối đức tin, Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Đêm đen lắm, nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa, và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng. Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe, đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phím đàn mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng, phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ, Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng. Khiêm nhường phục vụ, khiêm nhường sâu thẳm. Ngài có cùng tâm tình như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Trong đêm tối thử thách, Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào Lời Chúa. Hoàn toàn phó thác cho Chúa. Để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
Thánh Giuse, gương mẫu thời đại
Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi gương bắt chước đời sống đức hạnh của Người. Tất cả những ai xin thánh cả Giuse bảo trợ chắc chắn sẽ được Người chở che gìn giữ, như xưa Người đã gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria trong cuộc đời dương thế. Nhưng ít có ai noi gương được đời sống của Người. Đó là một đời sống thánh đức chiếu toả ra những nét đẹp cao quý mà ta khó bắt chước.
Nét đẹp thứ nhất ở nơi thánh Giuse mà ta khó bắt chước, đó là đức tính ít nói. Lần giở những trang Tin Mừng, ta thấy diễn tả nhiều hành động của thánh cả Giuse, nhưng không thấy trích dẫn lời nói nào của Người. Người làm nhiều nhưng nói ít. Còn ta, ta thương nói nhiều và làm ít. Tục ngữ Việt nam có câu: Đa ngôn đa quá. Ai nói nhiều sai lỗi nhiều. Thực vậy trong đời sống có biết bao hiểu lầm phát sinh từ những lời nói thiếu trung thực. Biết bao đổ vỡ do những lời nói thiếu trách nhiệm gây nên. Biết bao lời nói trống rỗng không chứa đựng nội dung xây dựng. Biết bao lời nói làm vẩn đục tâm hồn, vẩn đục môi trường đạo đức, làm ô nhiễm bầu khí bác ái. Thánh Giacôbê thật chí lý khi nói: “Ai không sai lỗi trong lời nói thì đó là người hoàn hảo. Người ấy có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2). Thánh Cả Giuse đã kiềm chế được lời nói, chứng tỏ Người hoàn toàn làm chủ được bản thân. Sự im lặng của Người là sự im lặng của kẻ mạnh. Sự im lặng của Người là sự im lặng của một đời sống nội tâm phong phú. Sự im lặng của Người là sự im lặng hoạt động đem lại những kết quả tốt đẹp.
Nét đẹp thứ hai ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự vâng lời tuyệt đối. Người luôn vâng lời Chúa, dù lệnh Chúa truyền chỉ mơ hồ trong cơn mê ngủ, dù lệnh Chúa truyền nhiều khi rất khó chấp nhận. Làm sao chấp nhận được một phụ nữ đã có thai làm bạn? Không bao giờ Người thắc mắc, chối từ. Không bao giờ Người tỏ ý ngần ngại trước những mệnh lệnh khó khăn. Trong mọi nơi mọi lúc, Người luôn vâng lệnh Chúa một cách mau chóng, tức khắc, vui tươi. Thấy Đức Maria đã mang thai, Người muốn trốn đi, nhưng khi Chúa tỏ ý muốn Người ở lại nhận Đức Maria làm bạn, Người vâng lệnh ngay tức khắc. Khi Chúa muốn Người đưa Đức Giêsu và Đức Maria trốn sang Ai cập, Người đã thức dậy và tức khắc lên đường giữa đêm khuya. Thật là một sự vâng lời tuyệt đối. Còn ta, trước những lệnh truyền của Chúa, ta có thái độ nào? Nếu ta không chối từ thì cũng uốn nắn theo ý riêng. Ít nhất cũng thắc mắc, giảm nhẹ. Nếu có vâng lời thì cũng ngần ngại, chậm trễ thi hành. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên đức tin mãnh liệt vào Chúa. Vì hoàn toàn tin tưởng nên hoàn toàn phó thác. Vì hoàn toàn phó thác nên hoàn toàn vâng phục. Dù không hiểu, nhưng cứ dấn bước lên đường. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên một lòng mến yêu tha thiết. Vì mến yêu tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ điều gì, cho dù không hiểu, cho dù khó khăn. Thánh Cả Giuse có lòng tin tưởng tuyệt đối và lòng yêu mến tha thiết đối với Chúa, nên đã vâng lời Chúa một cách tuyệt đối.
Nét đẹp thứ ba ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự khiêm nhường quên mình. Đọc trong Tin Mừng, ta không bao giờ thấy Người xuất hiện ở những nơi công khai được nhiều người biết đến, trái lại Người luôn có mặt ở những nơi tối tăm âm thầm. Người không làm những việc lớn lao trọng đại, nhưng chỉ chu toàn những bổn phận nhỏ bé thông thường. Một hình ảnh quen gặp là bức vẽ hoạ cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập. Đức Mẹ bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse đi bộ, dắt lừa âm thầm trong đêm tối. Tôi có cảm tưởng Người đã tự nguyện hạ mình xuống để Chúa được tôn vinh. Người đã tự nguyện sống âm thầm để Chúa được nhận biết. Người đã tự nguyện lùi vào bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Người đã chấp nhận bị quên lãng để Chúa được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta thường làm ngược lại. Ta luôn muốn nâng mình lên, nên Chúa thường bị hạ xuống. Ta luôn muốn phô trương bản thân, nên Chúa bị chìm trong âm thầm. Ta luôn muốn xuất hiện trong ánh sáng, nên Chúa bị đẩy lùi vào bóng tối. Ta luôn tìm cho mình được yêu mến, nên Chúa bị chôn vùi trong quên lãng.
Những nhân đức của thánh Cả Giuse thật khó bắt chước, nhưng đó là những đức tính rất cần cho thời đại chúng ta. Thế giới ngày nay quá ồn ào, cần có những con người hành động. Thế giới ngày nay đã chán ngán những lý thuyết, cho dù rất hay, rất đẹp, nên cần có những con người thực hành, làm chứng nhân. Thế giới ngày nay đang đánh mất niềm tin yêu phó thác, cần có thánh Cả Giuse như mẫu gương trung tín và khôn ngoan. Thế giới càng ngày càng tiến đến hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, đang cần những con người khiêm nhường, phục vụ, quên mình. Nếu ta biết noi gương những nhân đức của thánh Cả Giuse, ta sẽ có thể thánh hoá bản thân, củng cố gia đình và góp phần cải tạo xã hội.
Lạy thánh Cả Giuse, xin hãy chở che gìn giữ giáo phận chúng con. Amen.
Suy Niệm Lễ Thánh Giuse
Gm. Bùi Tuần
Thánh Giuse thinh lặng
Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.
Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.
Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.
Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv… Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.
Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin.
Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế.
Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài.
Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục.
Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin.
Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16,25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16,27).
Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín.
Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới.
Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng.
– Ông Môisen vào sa mạc Madian.
– Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê.
– Thánh Phaolô vào sa mạc Syria.
– Thánh Benedictô lên núi Subiacô.
– Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi.
– Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày.
Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ. Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21). Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn.
Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ.
Sau cùng, tôi thấy thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự hiện diện phong phú của Ngài giữa đời.
Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời. Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng. Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm. Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị.
Điều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm.
Riêng tôi, trong năm Mân Côi này, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta
– biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa,
– biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi,
– biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn,
– biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt.
Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.
Vài suy nghĩ về sự thinh lặnh nơi thánh Giuse
Thánh Giuse là người thinh lặng. Tôi nghĩ là ngài cũng đã nói năng như mọi người bình thường. Nhưng, khi soi dẫn các thánh sử viết Phúc âm, Chúa Thánh Thần đã chủ ý không muốn ai ghi lại lời nói nào của thánh Giuse.
Sự kiện đó phải được coi là một lựa chọn tốt, đề cao sự thinh lặng của thánh Giuse như một vẻ đẹp. Hơn nữa đó cũng là một bài học đạo đức cho các thế hệ mai sau. Như vậy, thánh Giuse là một trường học dạy thinh lặng. Nói đứng ra thầy dậy ở trường này là Chúa thánh Linh. Vì thế mọi tài liệu bàn về sự thinh lặng của thánh Giuse, nhất là bài này, chỉ nên được coi là những gợi ý yếu ớt đọc thì cứ đọc, nhưng việc quan trọng cần làm để hiểu và để học, chính là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh.
Riêng trong bài này, xin chia sẻ vài suy nghĩ riêng tư. Có nghĩa là những suy nghĩ này đã ảnh hưởng đến đời tôi, từ đó tôi có phần nào kinh nghiệm.
Điểm phát xuất những suy nghĩ sau đây của tôi là hình ảnh con trẻ Giêsu tại Nagiarét sống bên Đức Mẹ và thánh Giuse thinh lặng. “Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến” (Lc 2,52). Theo cái nhìn đó, Thánh Gia là một cộng đoàn Hội Thánh cực nhỏ. Chúa Giêsu, tuy là con, nhưng là vai chính trong kế hoạch cứu độ, đổi mới con người. Đức Mẹ và thánh Giuse là những người cộng tác gần gũi nhất. Đây là những cộng tác viên đắc lực đưa lại kết quả cao. Bởi vì đã góp phần làm cho trẻ Giêsu được nổi tiếng là phát triển về khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta mến thương.
Vậy, cộng tác đắc lực của thánh Giuse là gì? Thưa chính là sự cộng tác thinh lặng. Tất nhiên đây là sự thinh lặng tích cực. Thinh lặng tích cực đó được thể hiện như thế nào? Trước hết tôi nghĩ ngay tới sự thinh lặng tu thân.
Thinh lặng tu thân
Phong tục Á châu rất coi trọng việc tu thân. Những người muốn cải cách tôn giáo, chủ trương cứu độ, đổi mới con người và xã hội, thường phải xây dựng uy tín cho mình trước hết bằng việc tu thân. Thời này vẫn là thế. Thời xưa còn hơn bây giờ.
Thánh gia là một cộng đoàn đề cao tu thân. Một cách tu thân bình dân, phổ thông nhưng chất lượng cao. Trong cái ấy, thánh Giuse là một người tu tại gia. Nội dung tu thân của Thánh Gia nói chung và của thánh Giuse nói riêng là thực hiện trước những gì mà chúa Giêsu sẽ rao giảng sau này. Có thể tóm gọn lại là tu thân nhắm mục đích trở nên một tạo vật mới, dần dần nên giống Chúa là tình yêu và kết hợp với Ngài là Tình yêu. Muốn được thế phải thực thi thánh ý Chúa, hết tình yêu mến Ngài và chân thành yêu thương mọi người.
Như vậy, tu thân là hằng ngày vun tưới chăm sóc những hạt giống tình yêu Chúa đã gieo sẵn trong lòng mình. Tu thân là hằng ngày học hành tập luyện, để biết tự do chọn điều lành và tự do bỏ điều xấu. Lựa chọn tốt nhất và quan trọng nhất là chu toàn bổn phận phục vụ của mình.
Phục vụ tốt là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, với đúng cách, vào đúng lúc. Tất cả trong tình mến Chúa và yêu người với mức cao nhất.
Nhìn thoáng qua tu thân là như thế, chúng ta có thể tưởng tu thân là việc đơn sơ. Đúng là đơn sơ, nhưng chính là một cuộc phấn đấu thinh lặng cam go và thường xuyên với chính mình. Bởi vì có một vấn đề gai góc đứng đàng sau việc tu thân đó là một sự thực phũ phàng mà thánh Phao lô đã thực thà thú nhật: “Vẫn biết rằng Lề luật là Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thực vậy tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì diều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Tôi biết là sự thiện không có ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi… Theo con người nội tâm, tôi vui thích luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,14-23).
Như thế, tu thân đòi phải học hành, tập luyện để biết phân định điều lành điều dữ. Biết rõ rồi, lại phải biết can đảm chọn lựa điều lành một cách tự do. Chọn rồi, lại phải kiên cường thực hành điều mình đã tự do chọn lựa. Để được thế phải phấn đấu nhiều lắm, phải từ bỏ mình nhiều lắm, phải cầu nguyện nhiều lắm.
Tôi dám chắc là Thánh gia nói chung và thánh Giuse nói riêng đã thực hiện việc tu thân một cách trọn vẹn từng ngày, từng tháng, từng năm. Suốt 30 năm tu thân trong thinh lặng, đúng là một hành trình phát triển ơn khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta thương mến.
Suy nghĩ trên đây co phép tôi rút ra một kinh nghiệm về mục vụ và truyền giáo. Đó là người có chức vụ cộng tác với Chúa vào kế hoạch cứu độ, đổi mới con người và xã hội, sẽ phải quan tâm rất nhiều đến việc tu thân nơi chính mình. Tu thân một cách thinh lặng là một yếu tố quan trọng có sức cứu độ. Rất mong kinh nghiệm này của thánh Giuse được sống lại mạnh mẽ nơi mỗi người tín hữu, nhất là nơi các tông đồ ngày nay, bất kỳ là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân.
Thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện
Kinh nghiệm cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa được ban dồi dào cho những người thực sự tu thân. Và kinh nghiệm còn cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa còn được trao ban rất dồi dào cho những người gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện.
Một nơi thuận lợi để Chúa gặp gỡ con người, chính là nơi thinh lặng: “Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc và sẽ nói với lòng nó” (Ose 2,14). Sa mạc là biểu tượng nơi yên tĩnh. Nơi yên tĩnh là không gian thinh lặng, và nhất là tâm hồn thinh lặng.
Ai cầu nguyện suy gẫm và chiêm niệm trong thinh lặng sẽ dễ gặp được Chúa. Và khi Chúa đã đến với lòng họ, Chúa lại làm cho lòng họ càng thinh lặng hơn. Để rồi lúc đó sự thinh lặng trở nên đầy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong gặp gỡ thinh lặng này, con người không còn tìm hiểu Chúa nữa, mà là có chính Chúa. Họ cảm nghiệm được Chúa là tình yêu, là hạnh phúc của mình. Lúc đó con người sẽ thấy mọi sự đều rất đơn giản. Bất cứ việc gì tốt mình làm mặc dù bề ngoài coi là rất bé nhỏ, rất âm thầm, nhưng nếu làm với một tình mến lớn lao, chỉ vì Chúa, thì sẽ là việc rất giá trị có sức cứu độ, đổi mới bản thân, đổi mới con người và xã hội.
Trong cuộc gặp gỡ ấy, con người cũng sẽ thấy rõ mình hơn. Mình chẳng là gì, chẳng thể làm gì có sức cứu độ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Do đó mà phải chết đi cho chính mình để quyền năng Chúa ngự trị hoàn toàn trong con người của mình, từ lớp ý thức đến lớp tiềm thức và vô thức sâu thẳm, từ trí khôn cho đến ý chí và tình cảm, ký ức, trí vẽ và mọi tiềm năng sáng tạo.
Người học hành cần thinh lặng. Người nghiên cứu suy nghĩ cần thinh lặng. Người sáng tạo cần thinh lặng. Người tìm minh triết cần thinh lặng. Người hồi tâm cần thinh lặng. Phương chi người muốn gặp gỡ, lắng nghe Chúa càng cần phải thinh lặng. Bởi vì Chúa muốn được thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý, chứ không hài lòng với những hình thức ồn ào. Và bởi vì Chúa chỉ nói nhỏ nhẹ với những tâm hồn thinh lặng. Và bởi vì ơn đổi mới con người cũng chỉ được thực hiện nơi những con người khiêm tốn, thinh lặng.
Thánh Giuse, cần cù, nhiệt thành, tâm hồn khát khao tuân phục thánh ý Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ kiêu căng ích kỷ nào. Đoá là một thinh lặng thuận lợi co việc cầu nguyện sống thân mật với Chúa, lắng nghe được ý Chúa.
Thời gian thinh lặng cầu nguyện nơi thánh Giuse là suốt đời mình. Dài mấy chục năm. Đó là một cộng tác quí báu vào công trình cứu độ của Chúa. Đây là một gương sáng rất quan trọng ma mọi người đang cộng tác với Chúa tại Việt Nam hôm nay cần suy nghĩ và bắt chước.
Bởi vì tôi thấy hiện nay sự thinh lặng cầu nguyện đang có chiều hướng giảm dần, nhường chỗ cho những hình thức thờ phượng và hoạt động tôn giáo nhiều khi quá ồn ào, trình diễn, chiếu lệ, phô trương, cạnh tranh, lố lăng. Thinh lặng cảm thương thân phận con người đau khổ
Bất cứ ở đâu và ở thời điểm nào, lịch sử những người làm cách mạng chân chính đều làm chứng họ là những trái tim rực cháy lửa cảm thương số phận dân mình. Họï sống không những vì dân, cho dân, nhưng nhất là gân dân, giữa dân và như dân. Dân nói đây là lớp dân khổ đau. Họ đồng cảm nỗi lo nỗi khổ của lớp người đau khổ lo âu. Họ cùng trải quạ những hoàn cảnh khó khăn bế tắc như lớp người nghèo khổ nhất.
Trong ba năm đi rao giảng, Chúa Giêsu tỏ ra Ngài đã có những thương cảm đặc biệt sâu sắc đối với mọi thứ người đau khổ. Riêng đối với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không ngại yêu thượng gần gũi, tìm đến, với tất cả tấm lòng cảm thương lạ lùng chưa từng thấy “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
Tôi nghĩ là trước đó thánh Giuse cũng đã âm thầm cộng tác với Chúa Giêsu trong lãnh vực cảm thương. Suốt mấy chục năm tại Nagiareth, thánh gai nói chung và thánh Giuse nói riêng đã được dân nghèo coi như những người thân thương của họ. Và nhất là những người tội lỗi đã coi các Ngài như những người hiểu họ, thương họ, cảm hoá được họ và lôi kéo họ về đàng lành.
Những cảm thương của thánh Giuse dành cho những người tội lỗi là rất sâu sắc. Bởi vì ngài được Đấng cứu độ chia sẻ cho sự thực về những nỗi kinh hoàng mà những kẻ tội lỗi sẽ phải gánh chịu. Nói cho đúng ra, thì không phải Chúa sẽ phạt họ, nhưng chính những việc xấu của họ sẽ kết án họ. An rất nặng nề, rất đáng sợ.
Vì cảm thương số phận người tội lỗi, thánh Giuse coi việc cứu con người khỏi xiềng xích tội lỗi là ưu tiên, hàng đầu. Xiềng xích do tính xấu xác thịt, xiềng xích do thói xấu thế gian, xiềng xích do ác quỉ Sa tan, tất cả làm nên một hệ thống mãnh lực ghê gớm nô lệ hoá con người tội lỗi.
Giải cứu họ là cả một thách đố lớn. Khuyên bảo dạy đỗ chỉ là một phương cách thô sơ nhất. Trừng trị, đe doạ cũng vẫn chỉ là một cách may ra sinh kết quả tạm thời. Sau cùng Chúa Giêsu đã hết sức cầu nguyện và tự hiến mình chịu chết để đền tội thay cho tội nhân.
Những tội nhân sẽ chỉ được cứu, nếu họ biết đón nhận ơn tha thứ và cộng tác vào việc cứu độ của họ. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không biết đón nhận ơn cứu độ, đã không cộng tác vào ơn cứu độ. Đây là một thảm hoạ kinh hoàng, mà thánh Giuse đã thinh lặng cảm nhận. Do đó ngài đã âm thầm hiến dâng đời mình để cam lòng chịu mọi hy sinh cùng với Chúa Giêsu dấn thân vào con đường cứu độ. Giai đoạn sau cùng của Chúa Giêsu là sự thinh lặng chịu chết trên cây thánh giá. Thánh giá là khí cụ cứu độ. Tôi nghĩ là thánh Giuse cũng đã phần nào chia sẻ tất cả những chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu. Chia sẻ một cách thinh lặng nhưng đã gây được kết quả tốt cho nhân loại. Sám hối, sửa mình, đổi mới cách sống, trở về đàng lành, đó là những việc rất cần có ơn thánh giá mới thực hiện được
Thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có kế hoạch riêng của Ngài. Trong kế hoạch đó, Thiên Chúa chọn một số người. Mỗi người được trao nhiệm vụ nhất định, để thi hành tại những nơi nhất định và trong thời điểm nhất định. Thánh Giuse được trao trách nhiệm bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chắc là ngài cũng biết nhiều chuyện về Chúa Giêsu và Đức mẹ Nhưng ngài thinh lặng. Ngài là người bảo mật tối đa. Ngài là người thận trọng tuyệt đối với trật tự mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã phần nào soi sáng cho ngài. Đó là phải tuân phục thánh ý Cha trên trời, như con trẻ Giêsu đã mạc khải: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao (Lc 2,49).
Với sự thinh lặng và thận trọng đó, thánh Giuse lùi vào bóng tối. Chính nhờ vậy mà tất cả Tin Mừng đều tập trung vào Chúa Giêsu. Tập trung vào Chúa Giêsu, đó là điểm căn bản của kế hoạch cứu độ. Điểm căn bản này đã được thánh Giuse thực hiện một cách triệt để, khi ngài khiêm tốn ẩn mình vào thinh lặng hoàn toàn.
Phải chăng đây cũng là gương để chúng ta chỉnh đốn lại cách sống đạo. Khi mà nhiều nơi mục vụ xem ra càng ngày càng bớt tập trung vào Đức Kitô để đến nỗi trên thực tế, nơi nhiều người và nhiều cộng đoàn, Chúa Giêsu thực sự trở nên mờ nhạt, cô đơn, giữa những sùng kính phụ thuộc càng ngày càng đua nhau phát triển tưng bừng.
Thiết tưởng một sự kiện như thế giữa một tình hình Hội Thánh đang có nhiều vấn đề phức tạp không là dấu chỉ của một lòng đạo phát triển khôn ngoan và ân sủng.
Khi tĩnh tâm tại các tu viện chiêm niệm, tôi cảm thấy thấm thía một nhu cầu khẩn cấp hiện nay của tu đức, mục vụ và truyền giáo. Nhu cầu khẩn thiết đó là sự thinh lặng mà tích cực tôi vừa trình bày ở trên. Thinh lặng tu thân, thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, thinh lặng cảm thương số phận những người khổ đau tội lỗi, thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Chúa. Những đấng hiện nay đang gây được ảnh hưởng rộng lớn trong việc đổi mới con người, xã hội và Hội Thánh như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, Mẹ Têrêsa Calcutta, Anh Charles de Foucauld, đều là những người đã thinh lặng nhưng tích cực trong bốn lãnh vực nói trên. Thiết tưởng các vị đó đã đi con đường thinh lặng của thánh Giuse. Thời nay, nhất là tại Việt Nam này, người ta quá nhàm chán với những thứ người ồn ào la lối về cái rác nơi mắt người khác, còn cái xà nơi mắt mình thì lại không thấy (Lc 6,41-42).
Con đường thinh lặng mà tích cực đang mở rộng. Chúa tha thiết mời gọi chúng ta đi vào. Nguyện xin thánh Giuse giúp đỡ chúng ta biết mộ mến con đường đó. Hy vọng bằng con đường đó, chúng ta chứng minh được chúng ta là những người thực sự có sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, đẹp lòng Chúa và đáng được người ta mến thương, tin cậy.
Tìm Sống Ý Chúa
Lm. Jos. DĐH
Cuộc sống quanh ta, biết bao người đang tìm tiền tài địa vị, cũng không thiếu những người vẫn hướng tới mục tiêu hạnh phúc; còn gặp gỡ, thỏa mãn được mơ ước hay không, tùy mỗi người. Sống có tình có nghĩa, hoặc kiếm tìm giá trị thật của hạnh phúc, luôn là chọn lựa mà người ta phải giữ vững lập trường của mình. Dù ngóng chờ, dù trông đợi thành quả vật chất hay tinh thần, người ta vẫn có quyền hy vọng vào những nỗ lực riêng họ đầu tư.
Có hai thứ trên đời rất đáng trân trọng đó là danh dự và lẽ phải, nếu không nhẫn nại khi gặp điều trái ý, hoặc không đủ bình tĩnh sáng suốt lúc gặp gian truân, hẳn là sẽ “lớn chuyện”. Để có một quyết định đúng, không gây tổn thương đến người bạn trăm năm, ông Giuse muốn biết sự thật về việc Maria mang thai, không phải là sai ! Nhưng ông Giuse không tìm kiếm sự thật theo kiểu điều tra, hạch hỏi, hờn dỗi bực tức, nói một cách tích cực, ông đúng là người thật bình tĩnh. Ông tìm thánh ý Chúa, thay vì tìm cho ra lý lẽ Maria có phải là kẻ phản bội hay không ?
Để nhận ra thánh ý Chúa và sống đạo làm người, chúng ta không cần phải nhìn trước ngó sau xem có ai chê cười ta, đúng hơn là nên bảo vệ danh dự cho anh chị em mình bao nhiêu có thể. Xưa kia, để giáo dục và truyền được kinh nghiệm quí báu cho con cháu, cha ông chúng ta có câu : gọi vâng bảo dạ con ơi, vâng lời sau trước con thời chớ quên. Nhìn vào cách tìm ý Chúa để sống, nơi Giuse, ngài đã vâng phục đức tin thật tuyệt vời, dù qua giấc mơ Ông vẫn biết đón nhận Maria về làm bạn là điều cần thiết.
Có thể chỉ Kitô giáo mới đặt vấn đề đâu là ý ta và đâu là ý Chúa, nhưng đạo làm người cũng có câu đáng để ta suy xét : hữu tâm tất thành sự, hữu đức phúc tự lai. Nơi Giuse, ông vừa có tâm vừa có đức, nên cả cuộc đời của ngài là tìm biết ý Chúa và sống đức tin, cho dù khó khăn đau khổ không buông tha bất cứ ai. Tại sao Giuse không phải là vị “thông minh uyên bác”, mà Giáo Hội vẫn gọi ngài là Thánh Cả, dù thời nào cũng chủ trương người toàn diện phải là vừa tài vừa đức.
Ngày hôm nay, yếu tố làm nên “người hùng” không phải là văn võ song toàn, đâu phải cứ “vung tiền” khắp tứ phương mới gọi là đại gia, cũng không phải “cứ bằng cấp” đầy nhà sẽ được gọi là thầy thiên hạ. Giới răn trọng nhất là mến Chúa yêu người, không hệ tại giầu hay nghèo, lớn tuổi hay nhỏ tuổi, nhưng tùy thuộc mỗi người có hiểu và sống thánh ý Chúa đến đâu rồi ? Con đường nên thánh đâu phải là làm những việc to lớn; để được gọi là công chính, nhất định phải hiểu và hành động đức tin không chậm trễ.
Xã hội thời nào cũng sợ kẻ : nhất lý nhì lì, nhưng còn khiếp hơn nữa khi nói : chín thằng lì vẫn thua thằng liều. Thánh Giuse xưa kia không phải là người lý sự, không kiên trì đến độ “lì lợm”, cũng chẳng hiền lành dễ dãi như người “uống thuốc liều”, mặc kệ cho số phận. Cuộc đời hôm nay vẫn rất cần đến người cha tài đức, khiêm tốn, biết tìm ý Chúa và mạnh dạn sống yêu thương hơn là lý sự nguyên tắc. Xin Cha Thánh trợ giúp cho những ai thành tâm thiện chí biết thinh thặng cầu nguyện, gặp và hiểu được ý Chúa trong yêu mến phục vụ, xứng hợp với tình yêu xây dựng người công chính. Amen.
Công chính và khiêm nhu
Trầm Thiên Thu
Giuse theo tiếng Do Thái là יוֹסֵף [Yosef], tiếng Hy Lạp là Ἰωσήφ [Ioseph]. Giuse nghĩa là “thêm vào”. Có lẽ là thú vị đối với ý nghĩa này về Đức Thánh Giuse, con ông Gia-cóp, dòng dõi Thánh vương Đa-vít, Hôn phu của Đức Trinh Nữ Maria và người nhận lãnh trọng trách làm Dưỡng phụ của Chúa Giêsu trên trần gian.
Đức Thánh Giuse là người chồng và người cha gương mẫu, nhưng lại sống rất khiêm nhường, trầm tĩnh, quên mình vì vợ con, vì người khác, nêu cao tinh thần phục vụ, âm thầm tan biến như muối hòa tan để làm ngon mọi thứ, và ngài được tôn xưng là Đấng Công Chính.
Ngài là Phu quân của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, và Dưỡng phụ của Chúa Giêsu, vai vế lắm, trách nhiệm nặng nề và công cán to lắm, thế nhưng chẳng ai nghe thấy ngài nói gì, có lẽ ngài chỉ cười thôi. Quả thật, cuộc đời ngài hoàn toàn “nhỏ bé”, trầm lặng tuyệt đối, hầu như không có tài liệu nào ghi lại lời nói nào của ngài. Đúng như Chúa Giêsu nói: “Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9:48). Giáo hội Công giáo tôn xưng ngài là Thánh Cả, và là bổn mạng của Giáo hội.
Đức công chính rất cần, vì Chúa Giêsu dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6:33). Thật vậy, “một khi nên công chính thì con người được bảo đảm ơn cứu độ” (Rm 5:1-2). Với Đức Thánh Giuse, chúng ta có nhiều điều để nói, mà rồi cũng chẳng có gì để nói. Kỳ lạ thật! Đó là hai thái cực KHÔN – NGU.
Có vẻ chúng ta “rát tai” khi sách Huấn Ca nói: “Kẻ ngu đần chửi thẳng vào mặt; quà tặng của con người tham lam làm rơi nước mắt. Học trước đã rồi hãy nói sau; để ngừa bệnh, con hãy uống thuốc” (Hc 18:18-19). Thế nhưng lại hợp lý lắm. Cách so sánh rất thực tế: “Uống thuốc để ngừa bệnh”. Như vậy, “học trước, nói sau” là đúng. Người Việt cũng nói: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Không biết mà “tài lanh” thì quả là dại dột, đúng ra phải nói là “ngu xuẩn”. Ngu dốt sinh ra độc đoán. Đầu bã đậu nên không thể hiểu nổi ý tưởng cao xa. La Rochefoucauld nói rõ: “Những kẻ có trí tuệ tầm thường thì hay lên án những gì vượt quá tầm hiểu biết của họ”.
Im lặng là điều không dễ thực hiện. Chỉ vài người ngồi chung bàn mà ai cũng giành nói, tự cho mình biết nhiều, chữ nghĩa đầy bụng, muốn mình nổi bật, đôi khi nói mà không suy nghĩ, không uốn lưỡi bảy lần. Nói nhiều sai nhiều, nói ít sai ít. Không nói như Đức Thánh Giuse là OK nhất. Tuyệt cú mèo! Vả lại, nói đâu là chuyện dễ. Trước khi nói thì phải suy nghĩ, đắn đo, nói sao cho ngắn gọn mà đầy đủ. Nói dai, nói dài là dại. Nghĩ là điều khó, nói ra càng khó hơn, nhưng làm thì khó lắm. Đúng như Lachausser phân tích: “Nghĩ đúng, nói đúng, vậy cũng chưa đúng, mà còn phải làm đúng”.
Về tâm linh, sách Huấn Ca căn dặn: “Trước khi xét đoán, hãy tự kiểm điểm, thì trong giờ Chúa đến viếng thăm, con sẽ được khoan hồng” (Hc 18:20). Tính toán không hề đơn giản, dù chỉ suy nghĩ về điều nhỏ. Xem chừng “đơn giản” nhưng chỉ là… “đang giỡn” thôi. Việt ngữ ngộ vậy mà chí lý lắm!
Chúng ta thường nói tới “ba thù” – bộ ba: Ma quỷ, Thế gian, Xác thịt. Ham nói mà không ham làm là “dính líu” tới “thằng quỷ” Xác Thịt, vừa ích kỷ vừa kiêu ngạo. Thế mới “ham nói”. Ai thích “chỉ tay năm ngón” đều… nói nhiều. Thực tế minh nhiên như vậy. Vì thế, như đã nói, không dễ gì mà “im lặng” đâu! Có thể nói im lặng là một nhân đức, vì sự im lặng liên quan lòng khiêm nhường. Đức Thánh Giuse im lặng vì ngài rất khiêm nhường.
Mưu ma chước quỷ như lưới giăng bắt chim, phải cảnh giác cao độ. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi, vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:5-6). Không gì khôn ngoan hơn là hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Chắc chắn Đức Thánh Giuse có đức tin lớn lao và mạnh mẽ, nên ngài “thoải mái” giữ im lặng và hoàn toàn tín thác nơi Lòng Chúa Xót Thương.
Trình thuật 2 Sm 7:4-5, 12-16 cho biết: Ngày ấy, Thiên Chúa phán với ông Na-than: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Trình thuật ngắn gọn nhưng cho thấy Thánh Ý Thiên Chúa đã tiền định. Ở đây chúng ta hiểu về Đức Thánh Giuse, một người đầy quyền thế nhưng không thích dùng quyền đó. Thật vậy, ngài tự hạ như hạt muối hòa tan vào mọi thứ, đến nỗi không còn ai nhận ra muối. Ngài không nói nhưng hành động cụ thể. Thánh Teresa Ávila (Teresa Sánchez de Cepeda y Ahumada, 1515-1582), Tiến sĩ Giáo hội, quả quyết: “Không có điều gì tôi xin với Đức Thánh Giuse mà không được. Nếu không tin tôi nói, bạn hãy thử mà xem!”.
Đức tin của Đức Thánh Giuse quá lớn, đến nỗi ngài chìm đắm trong Dòng Thác Thương Xót nên không còn biết nói gì nữa, chỉ biết xưng tụng: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 89:2-3). Mọi điều đã ứng nghiệm như xưa Thiên Chúa tuyên phán: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta, rằng: Dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời, ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ” (Tv 89:4-5).
Thánh Phaolô nói: “Không phải chiếu theo Lề Luật mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp, nhưng ông được lời hứa đó vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin” (Rm 4:13). Vì tin mà Tổ phụ Áp-ra-ham được công chính hóa. Đức Thánh Giuse cũng vì tin mà được công chính hóa. Đó là hệ quả tất yếu theo lời hứa của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có. Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế” (Rm 4:16-18). Lời giao ước của Thiên Chúa là tặng phẩm hoàn toàn miễn phí, nhưng lại hiệu quả và ích lợi cho những ai thực sự tin tưởng.
Đức tin của Tổ phụ Áp-ra-ham vô cùng vĩ đại: Sẵn sàng ra đi theo lệnh Chúa truyền, và cũng không ngại hạ sát đứa con trai duy nhất của mình làm hy lễ dâng Thiên Chúa. Dù khó khăn cỡ nào, có lúc như tuyệt vọng, nhưng Tổ phụ Áp-ra-ham vẫn tín trung: “Ông Áp-ra-ham đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính” (Rm 4:20-22).
Dù “muộn màng” cũng xin mượn lời Thánh Vịnh để chúc mừng Tổ phụ Áp-ra-ham và Đức Thánh Giuse: “Phúc thay người ở trong thánh điện, họ luôn luôn được hát mừng Ngài” (Tv 84:5). Ước gì chúng ta cũng mau trưởng thành tâm linh để khả dĩ được công chính hóa, nhất là trong Mùa Thương Khó này, vì đây là cơ hội ngàn vàng!
Trình thuật Mt 1:16. 18-21. 24a, Thánh sử Mát-thêu kể: Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô. Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”.
Chuyện kể ngắn gọn, nhưng chúng ta thấy trong đó là một hành trình dài đằng đẵng, đầy gian khó, hẳn là Đức Thánh Giuse bị giằng co dữ dằn lắm. Chả thế mà “Chàng định ngấm ngầm bỏ đi khi thấy Nàng bụng to”. Chết chắc! Thời đó bị ném đá cho chết đấy. Đau thí mồ! Ý định “bỏ của chạy lấy người” cũng là lẽ thường của con người, thế nhưng sứ thần cấp báo cho ngài biết rằng chuyện không đơn giản như vậy, vì đó là “quyền phép của Chúa Thánh Thần” í mà. Chi mà nhát gan rứa hỉ? Chắc là Đức Thánh Giuse lúc ấy… gãi đầu. Ngại ghê!
Và rồi khi tỉnh giấc, biết rõ “hai năm rõ mười”, Đức Thánh Giuse liền làm y như sứ thần Chúa dạy và vui vẻ “đưa nàng về dinh”. Chả có vấn đề gì ráo trọi. Thế là an tâm và vô tư. Và Đức Thánh Giuse tiếp tục hành nghề thợ mộc để sinh sống, chuẩn bị cho mái ấm tương lai. Hay quá chừng luôn!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cảm tạ Ngài luôn quan phòng và tiền định mọi điều, dù có những lúc chúng con cảm thấy trái ý. Chúng con chân thành xin lỗi Ngài. Xin biến đổi chúng con, giúp chúng con biết noi gương thầm lặng của Đức Thánh Giuse, biết quên mình mà dấn thân sống tích cực vì tuân phục Thánh Ý Chúa và hết lòng vì tha nhân. Xin Đức Thánh Giuse đồng hành với chúng con và luôn cầu giúp nguyện thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
Những nẻo đường không bao giờ nghĩ tới
Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
Đấy là những nẻo đường trong đời của Giu-se …
Đấy là những nẻo đường trong đời của mỗi con người …
Cái anh chàng thanh niên làng quê Nazareth ấy – có lẽ khoảng 17 , 18 tuổi – có những dự định cho riêng mình …
Những dự định của anh ta “ ngẫu nhiên ” lại ăn khớp với dự định của cô bạn gái Maria – có lẽ khoảng 14 , 15 tuổi …
Và dự định của cả đôi bên lại không giống những bạn bè đồng trang đồng lứa ở thời đó : thời mà Dân Chúa mong đợi đến độ khát khao sự xuất hiện của Vị Vua Cứu Thế như lời hứa trong Kinh Thánh và âm thầm nhưng mãnh liệt không kém là nỗi ước mơ thầm kín được có Đấng Cứu Thế trong nhà mình , trong gia đình mình … Con làm vua thì phụ mẫu đương nhiên là vinh vang lắm rồi …
Vậy là “ ngẫu nhiên ” này đã nối kết với “ ngẫu nhiên” kia để rồi những dự định riêng tư trở thành một quyết định chung: yêu nhau và sẽ là bạn của nhau mãi mãi …
Thế nhưng Thiên Chúa lại thích cái “ ngẫu nhiên ” khác đời và khác người của cả hai …
Cái thích của Thiên Chúa thì không phải là thích tính cách “ khác đời và khác người ” của dự định , nhưng là thích thú nhìn thấy tình trạng “ nguyên thủy” của giây phút đầu tiên ngay sau tạo dựng khi tất cả còn vô cùng trong sáng , vô cùng pha lê , vô cùng thánh thiện , bởi vì như vừa xuất từ lò Tình Yêu…Thiên Chúa nhìn thấy điều ấy nơi dự định … và Người tận dụng ngay những “ngẫu nhiên” của cả đôi bên …
Những “ ngẫu nhiên” … làm nên NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI…
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI trong cuộc đời của Giu-se…
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG KHÔNG BAO GIỜ NGHĨ TỚI trong cuộc đời một con người…
Nhớ lại lời tâm sự của một vị Giám Mục nọ trong ngày tấn phong và nhận Giáo Phận : Chúa đã giúp con và đặt để trên khắp các ngã ba đường đời của con những bàn tay trợ lực … Con đi tới đâu thì đều có những bàn tay đưa ra nắm lấy tay con … Một cách khác để diễn tả những “ ngẫu nhiên” trong một cuộc đời … mà – chỉ khi nhìn lại thật kỹ – mới thấy những “ ngẫu nhiên” ấy nằm trong “ quan phòng” … Mà “ quan phòng” thì không còn là “ ngẫu nhiên” nữa , nhưng là “ trong kế hoạch ” … Chỉ có điều “ kế hoạch” đây là “ kế hoạch” của Thượng Trí được thể hiện qua những “ ngẫu nhiên” nơi thụ sinh , và , với thụ sinh thì là “ ngẫu nhiên” , nhưng nơi Thượng Trí thì là “ quan phòng” …
Truyền thông Hàn Quốc vừa qua mới tường thuật về cuộc đấu cờ vây đầu trong ba , bốn trận gì đó giữa phần mềm “trí tuệ nhân tạo” máy tính AlphaGo của Google và kỳ thủ người Hàn Lee Se-dol diễn ra tại khách sạn Four Season ở Seoul … Lee Se-dol đã thua trong trận đấu đầu tiên …
Mình hoàn toàn mù tịt về cờ vây …
Mình không biết gì nhiều về máy tính , ngoài chuyện gõ và gửi e-mail …
Thế nhưng có một chuyện vui vẫn hay được kể : ấy là có một cụ sở thích cờ tướng nhưng không được hay lắm …Đến chơi với cụ thì phải dè chừng nếu muốn được cùng ăn trưa …Năm ván thì thắng hai thua ba …Đặc biệt là ván cuối trước giờ ăn thì người thắng phải là cụ … Bữa trưa sẽ rất vui vẻ và hoành tráng …
Nhà hưu cũng có hai tay biết chơi cờ tướng : một tay khá thì còn trẻ và một tay tàm tạm đã chạm bát tuần … Cả hai chơi với nhau một thời gian thì xếp bàn : lý do tay trẻ , khá hơn , liên tục thắng và vị bát tuần liên tục thua …Giả như tay nọ nhường tay kia , thấy rõ con đường chiếu của mình nhưng vẫn lơ mơ , loạng choạng vài ba nước để “ được” thua … thì cuộc cờ có lẽ dài lâu và vui thú …
Suy ngĩ một chút về cuộc đấu cờ vây trên đây – dĩ nhiên chỉ là suy nghĩ của một lão già thất tuần ngốc nghếch về máy tính và kỹ thuật máy tính – nhưng chắc chắn một điều : máy tính là do con người và thông minh của máy tính là kết quả óc thông mình của con người …Chép phần mềm “trí tuệ nhân tạo” thì đương nhiên là DeepMind phải chép cả một “ kho” những thế cờ của các kỳ thủ thế giới … Vấn đề là làm sao để “ bộ óc nhân tạo” tung ra được thế cờ cần thiết đứng trước thế cờ của đối tượng con người … Đấy là chuyện của cảm ứng điện tử qua những những làn sóng điện tử của óc , của mắt , của môi , thậm chí của cả hơi thở …Cho nên chuyện đương đầu giữa một bộ óc chứa cả kho thế cờ có sẵn và bộ óc con người thì …
Suy nghĩ lẩn thẩn và nói mò nói mẫm vậy thôi …Tuy nhiên một sự thật là : bộ óc máy móc của một tập thể những bộ óc con người có thể làm được những điều lạ lùng trong thế giới của con người , và , nếu tập thể con người tốt lành thì những việc lạ lùng hướng đến sự thiện , còn , nếu tập thể con người không tốt , những việc lạ lùng sẽ gây hại …Hình như đấy cũng là nỗi sợ của nhân loại …đứng trước tốc độ phát triển thần kỳ của máy tính …Có lẽ người ta không sợ máy tính nhưng người ta sợ tham vọng bá chủ của con người … Và thứ tham vọng này thì có thật và ở mọi thời …
Gì thì gì chứ tự tạo những thế cờ lơ mơ, loạng choạng để có được bữa trưa hoành tráng và vui vẻ, có được những cuộc cờ thân hữu lâu dài … thì “ trí tuệ nhân tạo” không thể linh hoạt được đâu…Lúc ấy nó là thế cờ phối hợp của cả bộ óc và con tim : điều mà “ trí tuệ nhân tạo” chưa làm được … Chưa làm được hay không biết có làm được không …
Nhưng Đấng là Thượng Trí thì Người làm được tất cả …
Những “ ngẫu nhiên” của một đời người phải chăng cũng là những thế cờ sống biến hóa khôn lường …
Thiên Chúa vốn là “ chuyên gia” trong việc tận dụng những “ ngẫu nhiên” trong thế giới con người để hoàn thành chương trình của Người : một chương trình phần mềm được viết bằng những con người có tư duy và có hành động và có trái tim , phần mềm sẽ phân định thắng / thua trong cuộc cờ đời mà những người chơi bó tay , không thể xoay sở gì ở giây phút tận chung : vòng vây kết thúc …
Xin tạ ơn Cha về những nẻo đường không bao giờ nghĩ tới nơi cuộc đời thánh Giuse …
Xin cám ơn Cha về những nẻo đường không bao giờ nghĩ tới nơi cuộc đời mỗi chúng con …
Trở nên công chính nhờ biết thực thi ý Chúa
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ thánh Giuse, ngài là Đấng Công Chính, là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria, là Cha Nuôi Đấng Cứu Thế.
Tuy nhiên, thánh Giuse được biết đến là một con người thinh lặng, âm thầm tuyệt đối, nhưng lại có một cuộc đời hoạt động không ngừng nghỉ cho công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Chính vì điều đó mà thánh nhân được mệnh danh là người có một đời sống đức tin sâu xa, lòng trông cậy vững vàng và đức mến thiết tha.
Có được điều đó là vì thánh Giuse luôn tìm thánh ý Thiên Chúa thay cho ý riêng của mình. Ngài cũng sẵn sàng đón nhận mọi thử thách, đau thương để thánh ý Chúa được nên trọn.
1) Từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa
Thánh Giuse là con cháu Vua Đavít, ngài thuộc dòng dõi hoàng tộc. Khi xuất thân từ con dòng cháu giống như vậy, thân thế của thánh Giuse rất sáng giá. Từ đó, ta có thể suy tư và nhận biết rằng: thánh Giuse là một con người gương mẫu về việc trung thành với luật lệ của tiền nhân. Có lẽ ngài cũng giống như những người đạo đức của Dothái thời bấy giờ, đó là:
Luôn coi luật lệ Cựu Ước là khuôn vàng thước ngọc, là ánh sáng, là con đường để dẫn đưa mình tới hạnh phúc.
Tuy nhiên, thánh Giuse lại được Thiên Chúa ghé mắt nhìn và muốn sử dụng ngài trở thành người phục vụ cho công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là người chu toàn lề luật thuần túy. Vì thế, Thiên Chúa đã làm cho thánh Giuse từ một người công chính của thời Cựu Ước trong việc chu toàn lề luật cũ, trở thành người công chính của thời Tân Ước trong chương trình của Thiên Chúa.
Sự công chính mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho thánh Giuse được khởi đi từ biến cố ngài được báo mộng để đón nhận Đức Maria về làm vợ của mình trong khi Mẹ Maria đang mang thai.
Khi đón Mẹ Maria về chung sống như vậy, thánh Giuse thực sự trở thành người bảo vệ Đức Maria khỏi dị nghị và cái chết, bởi vì việc Mẹ Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, vì thế, một người phụ nữ mang thai mà không có chồng, chắc chắn, chiếu theo luật, Mẹ sẽ bị ném đá. Việc đón nhận Đức Maria trong lúc nước sôi lửa bỏng như vậy đồng nghĩa với việc cứu sống Đức Maria cách nhãn tiền. Đây là một việc làm can đảm và mang tính quan trọng, quyết định.
Khi chấp nhận như vậy, thánh Giuse đã làm tan biến cái “tôi” của mình để sống và phục vụ cho chương trình của Thiên Chúa.
Như vậy, nếu sự công chính thời Cựu Ước là chu toàn lề luật theo mặt chữ, thì công chính giờ đây, với thánh Giuse là: lắng nghe Lời Chúa, yêu mến, trung thành và thực thi trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.
2) Vâng theo ý Chúa là chấp nhận một cuộc thử thách cam go!
Khi chấp nhận đi vào đường lối của Thiên Chúa, thánh Giuse đã bước đi trên con đường chẳng mấy ai đi, bởi vì nó không mấy êm ả!
Nhưng với ngài, không một lời than van, oán trách, ngược lại, ngài đi trên con ấy bằng một tình yêu vô vị lợi và với tinh thần trách nhiệm cao.
Bí quyết mà thánh Giuse có được, đó là: ngài luôn gieo vào từng suy nghĩ, hành động của mình bằng một thứ tình yêu độ lượng, bao dung, từ đó, mọi chuyện dù có vất vả, khó khăn…, cũng không thể làm chùn ý chí của ngài.
Điều này được chứng minh ngay sau một thời gian khi đón nhận Mẹ Maria về làm vợ, thánh Giuse đã phải lặn lội đưa Mẹ Maria trở về quê quán để khai tên tuổi. Biến cố này đối với thánh Giuse là một sự kiện rất đáng ghi dấu, bởi vì chuyến đi này đầy ắp tình yêu của ngài với Mẹ Maria, nhưng lại là chuyến đi xa của đôi vợ chồng nghèo!
Chính vì điều này, mà khi đến nơi, không tiền, không bạc, nên không thuê được nhà trọ, vì thế, xót xa lắm khi phải đưa người vợ đầy yêu thương đang bụng mang dạ chửa sắp sinh con tiến ra cánh đồng, nơi dành cho bò lừa để tá túc qua đêm.
Rồi không gì khổ tâm cho bằng chứng kiến cảnh Con Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng nên đất trời, mà lại phải sinh trong máng cỏ của bò lừa, tanh hôi và lạnh giá!
Sự khó khăn không chỉ dừng lại ở đấy, nhưng chỉ mới được có vài ngày sau khi sinh, Gia Đình Thánh đã phải trốn chạy cảnh bạo chúa Hêrôđê ra tay tương tàn sát hại những con trẻ ở Belem.
Không phải chạy gần, mà chạy tới Aicập ngay trong đêm. Hơn nữa, sau khi nghe tin vua Hêrôđê băng hà, Giuse lại quyết định đưa vợ và con của mình hồi hương.
Rồi trong suốt thời gian Đức Giêsu sống ẩn dật, Kinh Thánh chỉ nhắc tới thánh Giuse có một lần. Tuy nhiên, lần nhắc đến này lại là lần ngài và Mẹ Maria tất tưởi đi tìm Đức Giêsu vì bị lạc mất Ngài.
Lược qua những biến cố trong cuộc đời của thánh Giuse như vậy, để cho chúng ta hiểu rằng: chấp nhận đi theo đường lối của Thiên Chúa, ấy là chúng ta chấp nhận lội ngược dòng của cuộc đời. Tuy nhiên, như thánh Giuse, ngài đã không hề than trách, không hề ngại khó ngại khổ, mà ngược lại, thánh Giuse đã làm cho tình yêu của ngài với Thiên Chúa qua Mẹ Maria và Đức Giêsu ngày càng lớn mạnh.
Còn chúng ta thì sao?
3) Sứ điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống của con người hiện nay, có lẽ khi nói đến sự công chính của thánh Giuse và mời gọi noi gương ngài để sống sự công chính ấy trong cuộc sống, chắc có nhiều người cho là hão huyền! Bởi vì ngày nay, người ta nhìn mọi biến cố dưới nhãn quan khoa học, ít quan tâm đến hiện tượng lạ xảy ra trong cuộc đời. Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dụng, vô thần và những trào lưu tục hóa đang ngày càng xâm lấn tư tưởng của con người, đã làm cho con người rơi vào tình trạng luôn tìm cách giải nghi huyền nhiệm theo hướng thực dụng!
Người Kitô hữu cũng không ngoại lệ bởi những diễn biến trên!
Chính vì vậy, nên người ta ít nhạy bén trước lời mời gọi của Thiên Chúa qua các dấu chỉ. Việc từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa là điều mà nhiều người không muốn nghĩ tới. Hơn nữa, quan niệm hưởng thụ lại là tiêu chí chủ đạo trong cuộc sống hôm nay, vì thế, khi nói đến hy sinh, chịu khổ vì người khác là điều mà nhiều người không thích!
Sứ điệp ngày lễ thánh Giuse hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm để từ bỏ ý riêng, nhằm phục vụ cho thánh ý và chương trình của Thiên Chúa. Chỉ khi ý riêng của chúng ta được hòa vào thánh ý Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta mới thực sự được tự do hoàn toàn và đời sống mới có giá trị đích thực.
Luôn loại bỏ tư tưởng rằng: tin và theo Chúa là tránh được những đau khổ, vất vả…. Không phải vậy! Nhưng cần điều chỉnh lại suy nghĩ và hướng tới tinh thần như thánh Giuse, đó là: chấp nhận tin và theo Chúa là sẵn sàng đi vào con đường hy sinh, đau khổ, từ bỏ. Hơn nữa, điều quan trọng nhất, đó là biết đón nhận đau khổ, hy sinh, từ bỏ với tình yêu vô vị lợi và luôn hướng tới người khác. Chỉ có như vậy, chúng ta mới biến đau khổ thành phương thế để được cứu chuộc mình và tha nhân.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải có một đức tin sống động, đức mến nồng nàn và niềm phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Có thế, chúng ta mới hy vọng có đủ độ nhạy bén như thánh Giuse để biết được đâu là thánh ý Thiên Chúa và đâu là ý loài người.
Nguyện xin thánh Giuse luôn bầu cử cho mỗi chúng ta có được trái tim yêu thương, xả thân hết mình vì Chúa và tha nhân như ngài. Xin thánh Giuse nâng đỡ đời sống đức tin, lòng mến và niềm cậy trông nơi chúng ta. Ước gì nhờ lời chuyển cầu của ngài, chúng ta can đảm và an vui dấn bước theo Chúa để được cứu độ. Amen.
Thánh Giuse là gương mẫu cho các gia trưởng
Lm. Anthony Trung Thành
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng trọng thể lễ kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, đồng thời cũng là bổn mạng nhiều tập thể và cá nhân khác, đặc biệt là của giới gia trưởng trong giáo họ chúng ta. Chúng ta xin Ngài bầu cử cho Giáo hội Việt Nam, cho mỗi người chúng ta, đồng thời đây cũng là dịp để các gia trưởng suy niệm các nhân đức của Ngài để noi gương bắt chước.
Thật vậy, Thánh Giuse là người công chính, Ngài luôn luôn tuân theo thánh ý Chúa. Khi Mẹ Maria mang thai, Thánh Giuse không hiểu bào thai trong bụng Mẹ do đâu. Theo luật Do Thái, Ngài có quyền tố cáo Mẹ. Nhưng thay vì tố cáo, Ngài định âm thầm bỏ đi. Đang khi tính toán như vậy, thì trong giấc chiêm bao, sứ thần bảo Ngài: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”(Mt 1, 20-21). Khi tỉnh dậy, Thánh Giuse hiểu được ý Chúa, nên đã mau mắn đón nhận Mẹ về nhà mình. Thế là mọi nghi vấn trong lòng của Thánh Nhân lâu nay đã được giải toả. Chắc chắn Mẹ Maria vui lắm. Vui vì người bạn đời đã hiểu được những gì mà Mẹ không tiện nói ra. Vui vì từ đây Mẹ có một chỗ dựa vững chắc và đáng tin cậy. Con Thiên Chúa sẽ có một người cha bảo vệ chở che.
Thế là cuộc sống của gia đình Thánh Gia được bắt đầu. Cũng như bao gia đình khác, gia đình Thánh Gia chăm chỉ lao động, giữ các luật lệ đạo đời. Thánh Gia cũng gặp nhiều niềm vui và chắc chắn không thể tránh khỏi những nỗi buồn. Nhưng nhờ sự khôn ngoan và tài đức của người cha, nên gia đình đã vượt qua tất cả.
Cuộc sống đang bình yên thì Sứ thần báo mộng cho Thánh Giuse biết, Hài Nhi đang bị Hêrôđê lùng bắt. Thánh Giuse đã vội vã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập(x. Mt 2,14). Đường xa hiểm trở, cuộc sống mờ mịt không biết đến ngày mai ở nơi đất khách quê người. Chúng ta hình dung một đôi vợ chồng trẻ với một đứa con thơ phải trốn chạy vì một một thế lực hùng mạnh đang tìm cách khử trừ, sẽ thấy được sự vất vả hy sinh của Thánh Giuse như thế nào. Nhưng vì muốn bảo vệ Hài Nhi, Thánh Nhân đã bất chấp tất cả. Hình ảnh Đức Mẹ và Hài Nhi ngồi trên lưng lừa, Thánh Giuse đi bộ dắt lừa là hình ảnh đầy tinh thần hy sinh và sự quan tâm của một người gia trưởng đối với vợ con.
Sau một thời gian vất vả sống nơi đất khách quê người, cuộc sống bắt đầu tạm ổn. Bổng dưng, Thiên Thần lại báo mộng cho Giuse đưa Mẹ Con trở về. Thánh Giuse chổi dậy, sẵn sàng đem Hài Nhi và Mẹ Maria về quê quán là Israel (x. Mt 2,21).
Khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi, cả gia đình trẩy hội lên đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn trẻ Giêsu ở lại Giêrusalem mà hai ông bà không hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ (x. Lc 2,41-46). Trẻ Giêsu lạc mất, Thánh Giuse và Mẹ Maria chia nhau đi tìm, là thể hiện sự quan tâm lo lắng của các Ngài đối với con cái.
Ngày hôm nay có nhiều bậc gia trưởng vẫn để con cái mình đi lạc mất nhưng không đi tìm. Trẻ Giêsu lạc mất trong Đền Thờ, “Đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi”, tức là đang làm việc của Cha Ngài như chính Ngài đã nói: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao?” (Lc 2,49). Còn rất nhiều con em của chúng ta ngày hôm nay không phải lạc mất trong Đền Thờ, mà lạc mất ở quán bar, quán net, khách sạn, bãi biển, những nơi ăn chơi trác táng…Thậm chí chúng đang sống trong gia đình với cha mẹ, nhưng hằng ngày chúng làm gì, bạn bè chúng là ai mà cha mẹ cũng chẳng hay biết.
Sau biến cố tìm lại được trẻ Giêsu trong đền thờ, Phúc Âm không nói gì về mối liên hệ giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu. Nhưng nhờ vào Tin mừng của Thánh Luca, chúng ta đoán được sự quan tâm hướng dẫn của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu như thế nào. Thánh Luca diễn tả: “Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến” (Lc 2,52).
Con trẻ của chúng ta ngày hôm nay cũng cần được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được mọi người thương mến. Vì vậy, cần sự quan tâm giáo dục của các bậc cha mẹ. Giáo dục về mọi mặt, nhất là về đức tin và nhân bản. Giáo dục phải bắt đầu từ khi con cái còn thơ bé. Người Đức có câu “Đừng nên bứng cây già đem trồng chỗ khác”. Thật phù hợp với quan niệm và cũng là chân lý ngàn đời của người Á Đông chúng ta : “Uốn cây từ lúc còn non, dạy con từ thuở con còn ấu thơ”. Bởi vì, cây non mới dễ uốn, cũng như trẻ thơ mới dễ dạy.
Công đồng Vatican II cho biết tầm quan trọng của việc giáo dục con cái khi nói: “Cùng với lúc lãnh nhận sứ mệnh cộng tác tạo dựng với Thiên Chúa, cha mẹ đương nhiên lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái, nhất là về phương diện tôn giáo” (x. GS 48). Tại sao vậy ? Vì đứa con mà cha mẹ sinh ra là một nhân vị, có quyền sinh trưởng cả về thể xác lẫn tinh thần xứng đáng với phẩm vị thiêng liêng của con người. Khi cha mẹ đem con đến nhà thờ để được cha xứ rửa tội, là như khai trương máng thông ơn thánh vào tâm hồn trẻ. Con mới bập bẹ tập nói thì dạy cho nó gọi tên cha, tên Chúa, dạy cho chúng biết đọc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng. Dạy cho chúng nhận biết Chúa qua các hình ảnh mặt trời, mặt trăng và muôn vàn tinh tú. Từ đó, theo từng lứa tuổi, cha mẹ phải lo cho con cái lãnh nhận các Bí tích: Giải tội, Thánh Thể, Thêm Sức…Cha mẹ phải cộng tác với cha xứ, với thầy cô giáo lý viên để giúp con cái học giáo lý đầy đủ. Trọng trách của cha mẹ thật lớn lao: Cha mẹ luôn là nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu không ai thay thế được. Bỏ bê con cái là trọng tội trước mặt Thiên Chúa. Cha ông ta đã nói:
Nuôi con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng.
Có nhiều phương pháp để giáo dục con cái, nhưng hai yếu tố chủ đạo là tình thương và gương sáng. Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu thương. Phải bộc lộ được tình mẫu tử và phụ tử với con cái, là mực thức hướng dẫn mỗi bước vào đời của con cái. Khi trẻ chưa đủ lý trí để đón nhận những lời dạy bảo của cha mẹ, thì chúng dùng con tim để đón nhận những ánh mắt và những cử chỉ đầy yêu thương của cha mẹ. Vì thế, lời dạy bảo của cha mẹ luôn phải đầy tình yêu thương và rất cần sự âu yếm và ngọt ngào:
Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Để con cái nghe lời thì cha mẹ phải làm gương sáng. Gia đình là một môi trường của tình thương, công bằng và công lý vì “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Làm sao con cái vâng lời cha mẹ, khi thấy cha mẹ nói một đàng làm một nẻo: Dạy con cái sống thật thà, nhưng cha mẹ lại gian dối; dạy con cái yêu thương, nhưng cha mẹ lại ghen ghét nhau và căm thù người khác; dạy con cái làm việc bác ái, nhưng cha mẹ lại không bao giờ giúp đỡ ai; dạy con cái thảo hiếu với mình, nhưng cha mẹ lại đối xử tệ với ông bà; dạy con cái xưng tội, rước lễ, nhưng cha mẹ lại bỏ Mùa Phục sinh; dạy con cái đi lễ đi nhà thờ, nhưng cha mẹ lại ngồi xem phim không muốn đến nhà thờ.
Nhìn vào các gia đình hôm nay, chúng ta thấy có nhiều gia trưởng biết chăm lo cho con cái về mọi mặt, nhưng vẫn không thiếu những gia trưởng sống vô trách nhiệm, không quan tâm giáo dục con cái, không làm gương sáng cho con cái. Thậm chí, lời nói và hành động của họ lại làm cớ cho con cái vấp phạm. Vì thế, một số giới trẻ vẫn bị những “Hêrôđê thời đại” như cờ bạc, xì ke, ma tuý, và các trào lưu xấu lùng bắt và giết chết. Vậy, nhân ngày lễ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện cho các gia trưởng luôn biết nhìn lên Thánh Giuse để noi gương bắt chước các nhân đức của Ngài. Đồng thời, xin Thánh Nhân bầu cử để các gia trưởng luôn biết chu toàn bổn phận làm chồng làm cha. Nhờ đó, tất cả gia đình chúng ta luôn được đầm ấm và hạnh phúc. Amen.
Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng y Bộ trưởng Antonius Cañizares Llovera và Đức Tổng giám mục Thư ký Arturus Roche ký vào ngày lễ Thánh Giuse Thợ 01.05.2013. Sắc lệnh quyết định đưa tên Thánh Giuse vào các Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria.
Trước đây, tên Thánh Giuse chỉ được đọc trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Lễ quy Rôma).
Sắc lệnh viết: “Qua việc làm cha chăm sóc Chúa Giêsu, Thánh Giuse làng Nazareth, khi được đặt lên trông coi gia đình của Chúa, đã hoàn thành nhiệm vụ đã nhận được nhờ ân sủng. Do gắn bó chặt chẽ với các mầu nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài trở nên mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho đức tin Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những nhân đức nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành và đích thực của Chúa Kitô. Nhờ các nhân đức đó, Người Công Chính này, sau khi đã hết sức trìu mến chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui vẻ tận tình dạy dỗ Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người quản lý kho tàng quý giá của Thiên Chúa Cha và qua các thế hệ được Dân Thiên Chúa không ngừng tôn kính như đấng bảo trợ thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là Hội Thánh” (Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo dịch).
Sắc lệnh ghi nhận rằng các tín hữu trong Hội thánh Công giáo luôn tỏ lòng sùng mộ Thánh Giuse và không ngừng tôn kính Ngài là Bạn rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và là Đấng bảo trợ trên trời của Giáo hội hoàn vũ. Vì lý do này mà Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã truyền đưa thêm tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma, sau tên của Mẹ Maria (Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Novis hisce temporibus, 13.11.1962).
Sắc lệnh nhắc lại rằng Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhận được nhiều lời thỉnh cầu đạo đức từ khắp nơi trên thế giới và ngài đã vui lòng chấp thuận, nay lại được Đức giáo hoàng Phanxicô tái xác nhận. Điều này diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với các Thánh, là những người đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô để liên kết chúng ta với Người.
Nội dung Sắc lệnh cũng ghi rõ các phần Kinh nguyện Thánh Thể (II, III và IV) bằng tiếng Latinh với tên Thánh Giuse đã được thêm vào, chẳng hạn như trong Kinh nguyện Thánh Thể II: “ut cum beata Dei Genetrice Virgine Maria, beato Ioseph, eius Sponso, beatis Apostolis”. Ngoài ra còn có thêm phần phụ lục cho các ngôn ngữ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức và Ba Lan.Đối với các ngôn ngữ khác, bản dịch sẽ do các Hội đồng Giám mục soạn thảo, theo quy định của luật và được Tòa Thánh phê chuẩn thông qua Bộ Phụng tự (trích: “Phải đọc tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV”, ‘WHĐ 19.06.2013’).
“Maria đã đính hôn với Giuse” (Mt 1,18). Từ ngày đó, Thánh Giuse đã trở nên Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Vui buồn sướng khổ, gian truân thử thách, Thánh Giuse đều đã trải qua. Ngài chính là mẫu gương cho anh em Gia trưởng trong đời sống gia đình.
Kể từ khi hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại. Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.
Thế rồi điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.
Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).
Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm đến bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.
Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.
Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.
Anh em Gia trưởng thân mến,
Thánh Giuse – Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ là gương sáng khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.
Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.
Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẻ nỗi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.
Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.
Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa – Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em. Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động, ngài xứng đáng là Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ.
Thánh Giuse Người Cha Tuyệt Vời
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy chỉ nhắc đến tên và một số đặc tính của thánh Giuse, chứ tuyệt nhiên không hề có chỗ nào ghi lại lời nói của ngài. Tuy nhiên, chỉ nhắc tới ngài thôi, thì cũng đủ để cho chúng ta thấy được vai trò ưu tuyển của ngài trong lịch sử cứu độ và nơi truyền thống của Giáo Hội.
Thật vậy, từ lâu, Giáo Hội đã tuyên xưng ngài là “đấng công chính”; “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”; là “bạn trăm năm của Đức Nữ Trinh”; là “đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội”; là “mẫu gương sống động cho những người cha nơi các gia đình”.
Vậy do đâu và tại sao ngài lại được ân thưởng những đặc ân cao quý như vậy?
1) Thánh Giuse là đấng công chính
Có lẽ xét về góc độ bề ngoài, thánh Giuse không có gì trổi vượt, thậm chí là một người bình thường như mọi người đàn ông nông dân khác thời bấy giờ. Nhưng xét về góc độ niềm tin, chúng ta dễ dàng nhận ra ngài là một anh hùng vì can đảm và tín trung.
Khi gọi ngài là “đấng công chính”, Giáo Hội muốn nói với con cái mình rằng: thánh Giuse là người thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn, vì đã gắn bó và trung thành tuân giữ lời của Thiên Chúa cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh.
Lần giở lại Kinh Thánh, chúng ta thấy việc Thiên Chúa sai sứ thần mộng báo cho thánh Giuse luôn mang tính đột ngột. Nhưng thái độ đáp ứng của thánh nhân cũng mau mắn đến độ đột ngột không kém.
Trong lần báo mộng đầu tiên, ý Thiên Chúa muốn thánh Giuse đón nhận Mẹ Maria về chung sống, để Con Thiên Chúa có một mái ấm gia đình bình thường như mọi gia đình khác trên trần gian. Nhưng đặt mình trong hoàn cảnh của thánh nhân lúc bấy giờ, thì việc đón nhận thánh ý Thiên Chúa thật không dễ, vì thai nhi Giêsu đang lớn dần trong cung lòng Mẹ Maria không phải của ngài, mà do quyền năng Chúa Thánh Thần. Xét theo góc độ con người thì việc đón nhận này không dễ. Tuy nhiên, thánh nhân đã không ngần ngại khi được giả thích, nên sẵn lòng đón Đức Mẹ về sống chung để cùng nhau xây dựng một gia đình thánh.
Tiếp theo là lần báo mộng thứ hai, ý Thiên Chúa mặc khải cho biết bạo chúa Hêrôđê đang tìm cách giết Con Trẻ, vì thế phải trốn sang Aicập ngay trong đêm; thánh nhân cũng mau mắn thi hành cách vội vã vì sự an toàn của tính mạng Con Thiên Chúa.
Lần cuối cùng, thánh nhân được báo mộng là đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lại Nazareth, vì hòa bình đã lập lại; thánh Giuse không ngần ngại đem Hài Nhi và Mẹ Người trở lạ quê hương xứ sở của mình cách an toàn.
Thêm vào đó, sau khi đi lễ đền thờ, lúc trở về, ngài phát hiện được Hài Nhi Giêsu không về chung với mọi người thân thuộc, nên đã cùng với Đức Maria tức tốc trở lại đền thờ để tìm con.
Và, mặc dù không nói, nhưng chắc chắn rằng: suốt cuộc đời sống âm thầm nơi làng quê Nazareth… thánh Giuse luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa qua mọi biến cố thăng trần của cuộc sống được thể hiện qua vai trò người chồng và người cha trong gia đình. Thật vậy, thánh nhân là người rất nhạy bén với thánh ý của Thiên Chúa và mau mắn thi hành. Chính sự cộng tác cách tuyệt đối này của thánh Giuse mà lịch sử cứu độ chuyển sang trang sử mới.
Bởi vậy, thánh Giuse xứng đáng được gọi là “đấng công chính” và là “cha nuôi Con Đức Chúa Trời”.
Khi trở thành dưỡng phụ của Đức Giêsu, lẽ đương nhiên, ngài trở thành “bạn trăm năm của Đức Maria”. Ngài là người chồng chung thủy và hết lòng yêu mến Mẹ Maria.
2) Thánh Giuse là đấng bầu chữa cho Giáo Hội
Thánh Giuse còn được gọi là đấng bầu chữa cho cả Giáo Hội:
Thật thế, trải qua dòng lịch sử, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự bầu chữa của thánh nhân. Ngài luôn nâng đỡ những người nghèo khổ, kém may mắn trong cuộc đời và nơi cuộc sống. Hình ảnh thánh Giuse hay làm phép lạ được truyền tai nhau khắp nơi. Đến nỗi người ta có thể nói rằng: ngài không quên ai chạy đến để cầu cứu ngài. Thánh nữ tiến sĩ Têrêsa Avila đã viết: “Tôi nhớ rõ, chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh vinh phúc này”; thánh Têrêsa Avila viết tiếp: “Dường như Đấng Tối Cao ban ơn cho các thánh giúp chúng ta việc này, việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thì Thánh Giuse vinh hiển có quyền năng rộng rãi giúp chúng ta trong mọi việc. Như thế là Chúa muốn cho chúng ta hiểu rằng, như xưa Chúa đã vâng phục Thánh Cả dưới thế, đã nhìn nhận Ngài với quyền làm Cha và làm Giám Quản, thì nay ở trên trời, Chúa cũng sẵn lòng chiều theo ý muốn của Ngài, mà nhận mọi lời Ngài cầu xin. Những người khác mà tôi khuyên chạy đến cùng Vị Bảo Hộ này, cũng nhận thấy điều ấy như tôi, do kinh nghiệm”.
Ý thức được tầm quan trọng của thánh nhân trong đời sống đức tin của Giáo Hội, và hết lòng tôn kính Ngài, vì thế, ngày 01.01.2013, Giáo Hội không ngần ngại khi đưa tên của thánh nhân vào trong Kinh Nguyện Thánh Thể với sắc lệnh số 215/11/L của Bộ Phụng Tự Thánh và Kỷ Luật Các Bí Tích. Vì thế, các Kinh Nguyện Thánh Thể đã nhắc tới danh xưng “Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ” như một niềm tôn vinh và cũng như một lòng trông cậy.
Như vậy, thánh nhân thật xứng đáng trở nên Vị Bảo Trợ cho cả và Giáo Hội. Bên cạnh đó, ngài còn là mẫu gương các gia trưởng nơi các gia đình. Bởi vì, ngài là người chồng, người cha mẫu mực khôn ngoan.
3) Bài học rút ra từ cuộc đời thánh Giuse
Mừng lễ thánh Giuse, Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng nhìn lên thánh nhân như một mẫu gương về lòng trung tín với Thiên Chúa, chung thủy với Đức Maria, luôn chu toàn trách vụ của người cha trong gia đình.
Thật vậy, thánh nhân là một con người thinh lặng, trầm tư, cầu nguyện… nên ngài dễ dàng nhận ra Thiên Ý và sẵn sàng mau mắn thi hành ý của Thiên Chúa trong cuộc đời. Sự thinh lặng của thánh nhân đã biến cuộc đời của ngài trở nên cuộc đời sống vì yêu. Yêu Chúa để thi hành mệnh lệnh. Yêu Mẹ Maria để sống chung thủy. Yêu mến Đức Giêsu để hết mực chăm lo. Yêu mến Giáo Hội để luôn bầu cử, trợ giúp… điều này thật đúng với tác giả Philippon, OP. đã nhận định về sự thinh lặng: “Ai yêu mến sự thinh lặng, sẽ được dẫn tới sự thinh lặng của mến yêu”.
Đối với Giáo Hội Việt Nam, giáo dân đất Việt có lòng yêu mến ngài đặc biệt. Nhiều gia đình, dòng tu, chủng viện, học viện đã tôn nhận ngài là Đấng Bảo Trợ. Nhiều nhà thờ lấy tước hiệu của ngài. Nhiều đền đài được dựng lên tỏ lòng tôn kính. Nhiều cụ ông, và anh em đã chọn ngài làm bổn mạng. Khi gặp bất trắc gì trong cuộc sống, chúng ta đều chạy đến với Ngài.
Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng chưa tôn kính ngài cho đủ, và cũng nhiều khi chúng ta chưa noi gương ngài thực sự. Vì thế, mừng lễ thánh Giuse, chúng ta hãy xin thánh nhân bầu cử cho các gia đình chúng ta, luôn giữ được lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội như ngài; mặt khác, khi Giáo Hội dành trọn tháng 3 để tôn kính thánh nhân, mà theo niên lịch phụng vụ thì thường rơi vào Mùa Chay, mà Mùa Chay là mùa sám hối, vì thế, cách này, cách khác, Giáo Hội muốn mời gọi mỗi chúng ta hãy trở về với sự thinh lặng, để gắn bó với Chúa, nhận ra thánh ý Chúa trên cuộc đời và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Chúa như thánh Giuse.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con mẫu gương tuyệt vời là thánh Giuse. Xin Chúa đón nhận lời bầu cử của thánh nhân mà ban cho chúng con được can đảm, trung thành và yêu mến luật Chúa; đồng thời đem ra thi hành trong cuộc sống hiện tại. Amen.
THÁNH GIUSE LÀ MẪU GƯƠNG LAO ĐỘNG CẦN CÙ
Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Đứng đầu gia đình thánh tại Nagiarét, thánh Giuse đã cần cù lao động, âm thầm thinh lặng và làm việc, đưa lại cho lao động một ý nghĩa cao sâu linh thánh. Thánh Giuse đã chấp nhận một công việc, một nghề tay chân: nghề thợ mộc. Với nghề thợ mộc, một nghề không có gì là vinh dự lắm trong xã hội Do Thái, thánh Giuse vẫn kiên trì phục vụ. Ngài làm việc với tất cả ý thức trách nhiệm của mình. Qua việc làm, qua nghề thợ mộc, thánh cả Giuse đã âm thầm chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng đang sống nhờ nghề thợ mộc của Ngài. Nơi Nagiarét, thánh Giuse đã phục vụ hết mình: mồ hôi, sự mệt nhọc và lòng hy sinh, quảng đại cố gắng của thánh Giuse đã mặc cho lao động một ý nghĩa tốt đẹp. Chúa Giêsu trong gia đình thánh nagiarét đã học nơi thánh Giuse sự cần mẫn lao động, đã học nơi Mẹ Maria sự kiên nhẫn, đơn sơ phục vụ trong những công việc gia đình hết sức tầm thường nhưng là những công việc của đời thường, là những lao công của cuộc đời con người. Khởi đi từ gia đình Nagiarét, người Kitô hữu trên khắp thế giới cũng được mời gọi yêu mến lao động dù là lao động chân tay hay lao động trí óc. Tất cả đều được gọi mời gắn liền với thánh cả Giuse, quan thầy và là Đấng bảo trợ của giới lao động. Trong một thế giới đan xen ánh sáng và bóng tối, trong một thế giới văn minh tuyệt đỉnh, lao động dù trí óc, chân tay hay kỹ thuật máy móc điện tử vẫn luôn cần thiết. Sự im lặng: nói ít, làm với hết khả năng, với óc sáng tạo luôn được đề cao, trân trọng. Thánh Giuse đã im lặng để phục vụ, để làm việc. Sự thinh lặng nội tâm của Ngài luôn có một ý nghĩa quan trọng. Thánh Giuse đã luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm: làm việc với đức tin , với lòng yêu mến.
Trong năm thánh hoá gia đình, việc lao động cũng cần được mọi gia đình xem xét lại vì cuộc đời của từng con người liên kết với công ăn việc làm của mình. Gia đình có đủ ăn, đủ mặc, gia đình có bảo đảm được vật chất, kinh tế của mình, đời sống tâm linh mới tốt hơn. Thánh Giuse đã nêu gương cần lao, đã biến gia đình Nagiarét thành trường đào tạo công ăn việc làm với tất cả lòng tin yêu. Chúa Giêsu cũng đã xuất thân trong gia đình Nagiarét, đã chấp nhận một công việc và làm cho việc lao động tràn đầy ý nghĩa. Mẹ Maria cũng đã làm việc nội trợ với tất cả ý thức, với tất cả lòng tin yêu của mình. Mừng lễ thánh Giuse thợ 01 tháng 5, xin thánh cả Giuse cầu thay nguyện giúp để mọi người, mọi gia đình luôn yêu mến công việc của mình vì những công việc chân chính sẽ giúp cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa.
Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gưong Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành( lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giuse thợ ).