Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, từ lúc khai sinh đến khi trưởng thành, được dệt nên từ tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi trang sử của Giáo Hội là một minh chứng về sự dẫn dắt, chở che và yêu thương của Ngài.
1.Bối cảnh xã hội
Vào đầu thế kỷ XVI, sự nghiệp Nhà Lê bắt đầu suy tàn, nước Đại Việt phải gánh chịu hai cuộc phân tranh Lê – Mạc (1533-1592) và Trịnh – Nguyễn (1627-1672)[1]. Những cuộc nội chiến liên miên và kéo dài đã làm đất nước suy yếu và khiến cuộc sống của người dân vô cùng cơ cực. Trong bối cảnh xã hội như vậy, hạt giống Phúc Âm được gieo trên đất Việt, và Giáo Hội Việt Nam được khai sinh giữa biết bao gian nan thử thách, có lúc tưởng chừng như mất hút vì các cuộc cấm cách và bách hại, nhưng thực tế vẫn luôn còn đó một sức sống mãnh liệt phát sinh từ niềm tin kiêu hùng làm trổ sinh hoa trái dồi dào trong Giáo Hội.
2. Tóm tắt lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XVII
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam được khởi đi từ việc thông thương buôn bán giữa các nước Tây phương với các nước Đông Nam Á. Những người Tây phương đầu tiên đến Việt Nam là người Bồ Đào Nha, Anh, Pháp và Hoà Lan… Mục đích của người Hoà Lan và người Anh là buôn bán, còn đối với người Bồ Đào Nha và người Pháp, ngoài buôn bán, họ còn nhận thêm sứ mệnh truyền giáo.
Mặc dù trong lịch sử đã có đôi nét về một giáo sĩ tên là I-ni-khu đến giảng đạo tại Việt Nam ngay từ giữa thế kỷ XVI[2], nhưng công cuộc truyền giáo ở Việt Nam chỉ thật sự bắt đầu với các thừa sai Dòng Tên từ đầu thế kỷ XVII. Vào ngày 18/01/1615, thừa sai Dòng Tên đầu tiên là Francesco Buzomi đặt chân lên đất Việt, tại Đà Nẵng. Ngay trong năm đầu, việc truyền giáo đạt kết quả, thành tích vang dội tới Macao, vì thế, các thừa sai được tiếp tục gửi đến Việt Nam. Những người hoạt động lâu nhất là cha Majorica, cha Buzomi, cha Đắc Lộ, cha Pina… Các ngài cũng là những người để lại nhiều dấu ấn trên đất Việt[3].
3. Công cuộc truyền giáo của Giáo Hội
Một cách tổng quát, công cuộc truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam có hai giai đoạn: giai đoạn của chế độ Bảo Trợ và giai đoạn của các vị Đại Diện Tông Toà.
3.1. Dưới chế độ Bảo Trợ
Từ cuối thế kỷ XV, việc khám phá các vùng đất mới ở Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á đã mở ra cơ hội cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội toàn cầu. Tuy nhiên, vì không đủ thực lực về tài chính, nhân sự và phương tiện vận chuyển, nên Giáo Hội phải nhờ cậy vào thế quyền để có thể thi hành sứ vụ của mình, qua việc giao nhiệm vụ truyền giáo cho các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, là hai cường quốc xâm chiếm thuộc địa hàng đầu thời đó. Cùng với việc giao nhiệm vụ truyền giáo, quyền Bảo Trợ cũng được đặt ra cho hai vương triều này. Thực tế, chế độ Bảo Trợ đã có những đóng góp nhất định cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, nhưng khi các vương triều đặt quyền lợi chính trị và kinh tế của đế quốc lên hàng đầu thì họ lại chối bỏ trách nhiệm truyền giáo của mình; hơn nữa trong nếp sống còn có những biểu hiện không phù hợp với người thợ Phúc Âm[4].
3.2. Chủ trương mới của Toà Thánh
Trước những lạm dụng của các vị vua Bảo Trợ, công cuộc truyền giáo chẳng những không có hiệu quả như thời gian đầu, trái lại còn gây ra những hệ luỵ tiêu cực. Vì thế, năm 1622, Toà Thánh đã thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin (còn được gọi là Bộ Truyền Giáo) để dần lấy lại quyền điều hành công cuộc truyền giáo của mình[5].
3.3. Công cuộc vận động của cha Đắc Lộ tại Rôma
Sau hai mươi năm truyền giáo ở Đàng Ngoài và Đàng Trong, cha Đắc Lộ bị trục xuất khỏi Đàng Trong và trở về Macao vào tháng 07/1645. Giữa năm 1649, ngài tới Rôma thực hiện sứ mạng do Tỉnh Dòng Nhật Bản giao phó là xin Toà Thánh gửi Giám Mục sang Đàng Trong và Đàng Ngoài, để truyền chức linh mục cho người bản xứ và tổ chức công cuộc truyền giáo “trong phần đất dân ngoại”; đồng thời vận động các vua chúa Công Giáo yểm trợ tài chính và xin cha Bề Trên Cả Dòng Tên gửi thêm thừa sai cho miền truyền giáo Đông Nam Á. Trong chương trình lớn lao này, ngài được cha Bagot mời tới nói chuyện với Nhóm Bạn Hiền tại Paris năm 1653. Tất cả đều ủng hộ và tỏ ra hăng say với việc đi truyền giáo ở Viễn Đông[6].
Nhiệt tình của Nhóm Bạn Hiền do cha Đắc Lộ gợi hứng bị khựng lại do phản ứng của Vua Bồ Đào Nha dưới triều đại của Đức Giáo Hoàng Innôcentê X. Nhưng vào năm 1655, Đức Tân Giáo Hoàng Alexander VII đã nhiệt tâm và đầy can đảm trong việc dành lại thế chủ động cho Toà Thánh trong công cuộc truyền giáo. Ngài cho xúc tiến kế hoạch của cha Đắc Lộ với Nhóm Bạn Hiền. Kế hoạch này được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của bà công tước d’Aiguillon và của Hiệp Hội Thánh Thể[7].
3.4. Thiết lập Địa Phận Đại Diện Tông Toà
Bước đầu tiên trong đường hướng truyền giáo mới của Toà Thánh là thiết lập các Địa Phận Đại Diện Tông Toà. Vì thế, ngày 13/05/1658, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đề nghị bổ nhiệm hai cha François Pallu và Pierre Lambert làm Giám Mục. Ngày 08/06/1658, Đức Thánh Cha Alexander VII phê chuẩn, và tiếp đó, ngày 29/07/1658, ngài ký đoản sắc Apostolatus Officium bổ nhiệm Đức Cha François Pallu làm Giám Mục hiệu toà Héliopolis (nay là Baalbeck, thuộc Syria) và Đức Cha Pierre Lambert de la Motte làm Giám Mục hiệu toà Bérythe (nay là Beyrouth, thuộc Liban)[8].
Ngày 17/08/1658, Thánh Bộ chỉ định miền truyền giáo cho Đức Cha François Pallu và Đức Cha Pierre Lambert. Ngày 09/09/1659, Đức Giáo Hoàng Alexander VII ký Sắc chỉ Super Cathedram thiết lập hai Địa Phận Đại Diện Tông Toà: Đàng Ngoài và Đàng Trong; bổ nhiệm Đức Cha François Pallu cai quản Địa Phận Đàng Ngoài và năm tỉnh của Trung Hoa (Vân Nam, Quý Châu, Hồ Quảng, Quảng Tây, Tứ Xuyên) và nước Lào; Đức Cha Pierre Lambert cai quản Địa Phận Đàng Trong, một số tỉnh của Trung Hoa (Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông) và Đảo Hải Nam[9].
4. Huấn Thị năm 1659[10]
Tiếp theo sắc chỉ phân chia vùng hoạt động, Thánh Bộ còn gửi cho hai vị Tân Giám Mục bản Huấn Thị khá chi tiết, hướng dẫn rất rõ những việc các vị Đại Diện Tông Toà phải làm trước khi lên đường truyền giáo, trên đường đi và ngay tại miền truyền giáo.
Như vậy, sau gần nửa thế kỷ khai phá của các thừa sai Dòng Tên, với biết bao công lao gian khó, việc Toà Thánh bổ nhiệm hai Giám Mục Đại Diện Tông Toà đầu tiên cho hai Địa Phận Đàng Ngoài và Đàng Trong, cùng với việc vạch ra định hướng truyền giáo, đã khai mở một giai đoạn mới cho việc loan báo Phúc Âm ở Việt Nam. Công trình này đưa đến việc hình thành một Giáo Hội, cả ở bình diện Dân Chúa và bình diện phẩm trật, mà công trạng đầu thuộc về hai Giám Mục tiên phong, cách riêng, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, người sống hết mình cho sứ vụ và chết trên cánh đồng truyền giáo.
[1] X. Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, nxb Văn Hoá Thông Tin, 2008, tr.275-284.
[2] X. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập II, bản dịch Viện Sử Học, Hà Nội, Giáo Dục, 1998, tr.300-301.
[3] Danh sách các thừa sai Dòng Tên truyền giáo ở Đàng Trong từ 1615-1663, theo Montezon, La mission de Cochinchine et du Tonkin, tr.390-393.
[4] X. Đỗ Quang Chính, Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam, Tp.HCM, lưu hành nội bộ, 2005, tr.26-30.
[5] X. nt., tr.17.
[6] Cf. J. Guennou, Missions Étrangères de Paris, Fayard, 1986, p.35.
[7] X. Đỗ Quang Chính, Hai Giám Mục Đầu Tiên Tại Việt Nam, sđd., tr.92-93.
[8] X. nt., tr.98.
[9] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome I, Paris, Téqui, 1923, pp.9-10.
[10] Cf. H. Chappoulie, Aux Origines d’une Église: Rome et les Missions d’Indochine au XVIIe siècle, tome I, Paris, Bloud et Gay, 1943, pp.392- 402.