Dòng Mến Thánh Giá Thế Kỷ XVII Thành Lập Và Tổ Chức (Chương 2)

DÒNG MẾN THÁNH GIÁ THẾ KỶ XVII THÀNH LẬP VÀ TỔ CHỨC

Chương Hai 
Tại Đàng Ngoài : Lập dòng nữ Mến Thánh Giá

 Thừa sai François Deydier đã rời Xiêm La từ ngày 20 tháng sáu năm 1666 để sang Bắc Việt (mà hồi đó còn gọi là xứ Đàng Ngoài). Rồi hơn một năm sau, ngài viết cho đức cha Pallu rằng[1][1] :

«Ngày 1.11.1667

Con phải nghĩ đến làm lề luật phép tắc cho hai nhà các thiếu nữ và một vài bà góa muốn sống chung với nhau; nhưng con chẳng có quyển sách nào hầu giúp con trong chuyện ấy. Con nghĩ rằng con có thể quy tụ lại được gần ba chục chị em là những người chỉ ao ước sống như thế, nhưng làm cách nào mà có thể đủ cho tất cả mọi sự : giải tội mọi ngày mọi đêm cho một số đông người, bao nhiêu là thư từ phải trả lời ?

Con chỉ thiếu ba bốn ngày rảnh rỗi là hoàn tất được một thủ bản 14 bài suy gẫm, cho hai tuần lễ, và đã hơn ba tháng rồi mà thủ bản ấy vẫn còn nguyên tình trạng cũ mà con không thể nào hoàn tất được».

Cứ theo chứng từ trên, xem ra dự tính lập một dòng nữ tại Đàng Ngoài không thấy có gì là khó khăn lắm : «Con nghĩ rằng con có thể quy tụ lại được gần ba chục chị em là những người chỉ ao ước sống như thế». Điều kiện thật hết sức thuận lợi trên có thể khiến chúng ta thắc mắc : Việt Nam vốn là xứ văn hoá Khổng Mạnh, trọng nam khinh nữ, mà chuyện hôn nhân lại là một chuyện rất quan trọng và rất được đề cao. Ít nữa là vào thời điểm đó. Bởi thế, việc các thiếu nữ sống đồng trinh thì hoàn toàn không phải là việc được cổ võ hay coi trọng trong phong tục tập quán người Việt Nam lúc ấy. Trái lại, việc dựng vợ gả chồng thật sớm, nhất là vấn đề đa thê đa thiếp, lại là sự thường tình và phổ cập. Trong tình cảnh xã hội như thế, việc các thiếu nữ bỏ nhà cha mẹ, sống đồng trinh và sống chung thành cộng đoàn với nhau, quả thực là một sự kiện xã hội mới mẻ.

Về các thiếu nữ công giáo mà thừa sai Deydier nói đến ở trên, chắc chắn họ đã được gương sáng của các thày giảng lôi cuốn và lòng đạo đức riêng thúc đẩy.

Các thày giảng đã được các thừa sai dòng Tên thành lập tại Việt Nam từ lâu. Thừa sai Alexandre de Rhodes có viết trong sách của ngài rằng[1][2] : «Những người đầu tiên mà tôi chọn là Phanxicô, Anrê, Inhaxu và Antôn. Một cách công khai, trong thánh lễ, họ đã làm lời thề suốt đời phục vụ Giáo Hội, không lập gia đình và vâng lời các cha sẽ đến rao giảng Phúc Âm». Tóm lại, thày giảng là một hình thức tu trì cho nam giới tại Việt Nam thời kỳ các thừa sai dòng Tên. Họ tuyên khấn ba điều : «Lời khấn thứ nhất là sẽ không bao giờ lập gia đình; thứ hai là không giữ sự gì làm của riêng; thứ ba là không dạy dỗ những điều sai với giáo lý đã học được nơi các thừa sai dòng Tên».[1][3]

Khi thừa sai Deydier tới Hà Nội vào tháng tám năm 1666, ngài được cho biết là trong xứ Đàng Ngoài lúc đó còn được 8 thày giảng lớn và 15 thày giảng nhỏ (hay là kẻ giảng). Nhờ ông Raphael, xưa là thày giảng mà nay đã lập gia đình và đang làm thông ngôn cho các thương nhân người Hoà Lan tại Hà Nội, giúp đỡ, các thày giảng nói trên đã tậu được một con thuyền lớn mà sinh sống với nhau. «Họ cũng tuyên khấn, ít nữa là với nhau, rằng không giữ của gì riêng tư và không lập gia đình».[1][4]

Về các thày giảng thì như thế.

Trái lại, chúng tôi không thấy có một tổ chức tu trì rõ ràng nào cho các phụ nữ công giáo Việt Nam trước ngày dòng nữ Mến Thánh Giá được thành lập. Trong sách của cha  Alexandre de Rhodes, có đoạn nói tới ba trinh nữ tỉnh Hải Dương (xứ Đông) trong năm bách đạo 1640, rằng[1][5] :

«Có ba cô gái trẻ thuộc tỉnh mà người ta gọi là xứ Đông đã khấn hứa với Thiên Chúa là giữ đời đồng trinh; lòng quả cảm của họ lúc vừa hay tin có cơn bách đạo thật là phi thường. Họ viết một bức thư (rất) đẹp cho các cha dòng chúng tôi; trong đó, họ biểu lộ lòng can đảm  mà Thiên Chúa đã ban cho họ khiến họ tự đến xưng mình là Kitô hữu trước mặt nhà vua[1][6] và tuyên xưng sẵn sàng vui lòng đổ hết máu mình ra hầu gìn giữ danh hiệu (Kitô hữu) cùng phẩm  chất (đồng trinh) vinh hiển ấy mà họ muốn sống và chết (như vậy).

Những trinh nữ này tên là Monica, Nympha và Vitta.

Sau đó ít lâu, Thiên Chúa đã sửa soạn cho họ một thử thách lờn về lòng can đảm của họ và là một dịp tốt đẹp cho họ lập công. Bởi vì, Vitta bị một tên lính vô liêm sỉ bắt gặp nơi thanh vắng và hắn dụ dỗ nàng hại danh dự mình, đến độ hắn tuốt gươm trần ra để trên ngực nàng mà đe dọa sẽ giết nàng nếu nàng không muốn thuận theo những ý muốn của hắn.

Người thiếu nữ cao cả đó, không cãi vả : «Vâng dạ (trong nguyên bản : «Ouy dea»), nàng bảo hắn, ông sẽ cất được mạng sống tôi hơn là danh dự của thân xác tôi mà tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa». Vừa nói, nàng vừa đưa cổ và ngực cho hắn. Nàng thêm : «Ông hãy đâm chỗ nào ông muốn, tôi sẽ vui lòng chết nghìn lần hơn là chiếu theo đòi hỏi vô liêm sỉ của ông và tội lỗi phản nghịch cùng Thiên Chúa mà tôi phụng sự». Quyết định dứt khoát ấy làm ngạc nhiên tên lính và cứu được danh dự cho người trinh nữ.

Hai thiếu nữ kia cũng đã tỏ ra không kém phần can đảm trong một thử thách tương tự mà niềm tin của họ bị tấn công. Họ đi đến Kinh Thành cùng một bà già tốt lành tên là Phan-xi-ca để lãnh nhận các phép Bí Tích tại đấy và bồi dưỡng sức mạnh chống trả những tấn công của cuộc bách hại. Trên đường đi, họ bị những người lính ngoại đạo bắt gặp và bị hỏi về niềm tin mà họ vâng giữ. Họ đã xưng đức tin ra cách thẳng thắn và triệt để, chẳng hãi sợ những đe dọa của những người lính đó. Sau khi chịu những lời thô bỉ hỗn hào, họ bị quẳng xuống những hố, bị lấp đất đầy tới cổ. Họ nằm trong cảnh như vậy suốt cả đêm cho tới sáng, mà Thiên Chúa muốn cho họ được các bổn đạo gặp thấy. Các bổn đạo kéo họ ra khỏi đó và dẫn họ vào trong Thành phố.

Từ lúc đó, ba cô gái này đã được đem đi ẩn ở một nơi an toàn; có năm hoặc sáu cô khác, cũng mang một quyết định như vậy và cùng giữ mình theo những lời khấn sống trinh khiết trọn đời, đã đến hợp với họ trong cùng một căn nhà, làm thành một đàn nhỏ các trinh nữ và sống một đời sống thiên thần».[1][7]

Và câu chuyện năm 1640 ấy chấm dứt ở đây, chúng ta không biết gì hơn nữa.

Theo lời kể của cha Marini[1][8], thừa sai dòng Tên tại Đàng Ngoài từ năm 1647 đến 1658, những thiếu nữ Kitô hữu muốn sống độc thân, hoặc vì chuộng đời sống khiết tịnh, hoặc vì chạy trốn hôn nhân với người ngoại đạo hay trốn làm vợ lẽ, không phải là không có. Các thiếu nữ này thường bỏ làng quê, tìm ẩn náu nơi nhà một bà đạo đức nào đó, đôi khi chỉ trong một thời gian ngắn. Ngài viết : «Ngày nay, bởi vì tại Đàng Ngoài không có các Nội Cấm (tức tu viện), nhiều thiếu nữ trẻ độc thân trốn khỏi Thành phố mình, và nhờ công việc chân tay, họ nuôi sống mình, nhận hầu hạ trong những nhà các bà có đạo; các bà ấy coi họ như con gái riêng mình; cứ như thế, các cô sống gương mẫu, tựa như họ là những Nữ tu : không ham muốn sự gì nơi trần gian này»[1][9]. Thừa sai Marini (cũng như các thừa sai dòng Tên) không muốn tổ chức dòng tu cho các thiếu nữ đồng trinh này, kể cả cho các thiếu nữ có thiện chí nhất : «Thực sự, một cách chung chung chúng tôi không nhận sự ly thoát trần gian này, trừ ra những trường hợp khẩn cấp và chỉ trong một thời gian rất ngắn ngủi»[1][10]. Các ngài e ngại gặp khó khăn từ phía các quan lại, ông bà cha mẹ muốn gả chồng cho con gái mình, và đương nhiên các kẻ muốn cưới lấy các thiếu nữ ấy[1][11]. «Bởi vì những người ngoại, những kẻ giầu có thấy hành động của các cô và không coi đó như một Bí Tích («Sagramento»)[1][12], có thể có thành kiến mà chế nhạo họ, hiểu xấu hành động của họ, chửi rủa cộng đoàn người có đạo; nhưng (chúng tôi không lập dòng tu) cũng còn là để tránh những phiêu lưu nguy hiểm cho những ai dấn thân vào công cuộc rất to lớn này».[1][13]

Câu chuyện ba thiếu nữ tỉnh Đông và lời thuật của thừa sai Marini cũng tạm đủ để cho thấy rằng ngay từ ban đầu, tinh thần và lối sống tu hành công giáo không phải là không thích hợp với nữ giới Việt Nam. Chẳng thế mà ở Đàng Ngoài mới hơn một năm, lại vô cùng bận rộn với trăm công nghìn việc, thừa sai Deydier đã có thể báo cáo cho đức cha Pallu rằng : «Con phải nghĩ đến làm lề luật phép tắc cho hai nhà các thiếu nữ và một vài bà góa muốn sống chung với nhau…. Con nghĩ rằng con có thể quy tụ lại được gần ba chục chị em là những người chỉ ao ước sống như thế…».

Thừa sai Deydier viết cho đức cha Pallu mà không viết cho đức cha Lambert de la Motte lá thư trên, cho dù đức cha Lambert de la Motte là người thiết tha hơn cả trong việc lập hội dòng nam và nữ. Lý do rất dễ hiểu là Đàng Ngoài là địa phận thuộc đức cha Pallu mà cha Deydier là linh mục tổng đại diện của ngài. Sự sắp đặt của Toà thánh là thế, nhưng giám mục đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Việt Nam và tại xứ Đàng Ngoài lại là đức cha Lambert de la Motte.

Tuy nhiên, trước khi tới Đàng Ngoài năm 1669, lúc còn ở tại Xiêm La, đức cha Lambert de la Motte cũng được tin của thừa sai Deydier : «Chúng tôi nhận được tin tức vào tháng Giêng năm 1668 nhờ một con tầu người Hoà Lan… Qua những bức thư của vị thừa sai ấy (tức cha Deydier), chúng tôi hay… có nhiều người đã dâng hiến cho Thiên Chúa đức đồng trinh của mình và một số đông các quả phụ trẻ tuổi đã từ chối  việc tái hôn lần thứ hai…».[1][14]

Sự thực, có lẽ những «người đồng trinh» nói trên không «nhiều» như các thừa sai tại Xiêm La đã nói. Trong lá thư tường thuật của thừa sai Deydier gửi đức cha Pallu, ngài viết[1][15] : «Từ Kẻ Vòi, con sang Kẻ Mong là nơi cách đó một nửa ngày đàng[1][16]. Nhà thờ (tại Kẻ Mong) này có hai gian. Một trong các thày giảng tên gọi là Ông già An-tôn, 82 tuổi, cư ngụ ở đấy. Trong giáo xứ này có 3 cô gái trẻ giữ đức khiết tịnh, sống chung với nhau theo một số luật lệ mà con đã ra cho họ, trong niềm hy vọng rằng Thiên Chúa ban cho chúng con phương tiện để có thể tạo nên một thứ tu viện trong đó những chị em này và nhiều chị em khác đủ mọi lứa tuổi có cùng lòng ao ước như vậy, sẽ sống chung với nhau».

Niềm hy vọng của thừa sai Deydier sẽ thành sự thực trong vòng mấy tháng sau đó, khi đức cha Lambert de la Motte đến Đàng Ngoài.

Ngày 17 tháng bảy năm 1669, đức cha Lambert rời kinh đô Juthia, theo đường sông ra cửa biển để lên tầu ngày 23 cùng tháng, sang xứ Đàng Ngoài. Đi với ngài, có hai linh mục thừa sai Jacques de Bourges và Gabriel Bouchard. Trên đường, ngài phải dừng chân tại đảo Hải Nam từ ngày 22 đến ngày 26 tháng tám và đến được Đàng Ngoài ngày 30 sau đó.

Công đồng xứ Đàng Ngoài năm 1670

Đầu năm 1670, sau khi hiến phong linh mục cho 7 thày giảng, đức cha Lambert triệu tập một công đồng xứ Đàng Ngoài tại Phố Hiến, Nam Định. Ngoài ngài ra, các thành phần tham dự gồm có : thừa sai François Deydier là tổng đại diện địa phận, thừa sai Jacques de Bourges, thừa sai Gabriel Bouchard và các linh mục Việt Nam : Bentô Văn Hiền (54 tuổi), Gioan Văn Huê (46 t.), Martinô Mát (68 t.), Antôn Văn Quế (56 t.), Philipphê Văn Nhân (52 t.), Simong Kiên (60 t.), Giacôbê Văn Chiêu (46 t.), Vitô Văn Trí (30 t.), Lêông Văn Trông (46 t.).

Ngày 14.2.1670, họ ký chung một văn bản công đồng gồm 34 khoản, quy định các chức năng, kỷ luật, việc tổ chức và điều hành Giáo Hội địa phương. Văn bản được gửi sang Toà thánh Roma để xin phê chuẩn.

Toà thánh, sau khi duyệt xét và thêm bớt một số chi tiết, đã chuẩn nhận ngày 23.12.1673.[1][17]

Đặc biệt, liên quan tới «dòng Mến Thánh Giá», bản văn công đồng ký tại Phố Hiến, khoản thứ 21 viết : «Các vị quản nhiệm tỉnh hạt, các thày giảng và các vị được xem như thày giảng sẽ khuyến khích các tín hữu theo và giữ con đường chật hẹp, dẫn đưa họ tới việc nguyện ngắm trong lòng, ít ra là vào các ngày lễ buộc, và đặc biệt, vào các ngày trên, biết suy niệm cuộc chịu nạn và thương khó của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Với những ai được xét là có thể, nên đề nghị họ gia nhập vào hội dòng các Đấng Yêu Mến Thánh Giá, theo luật lệ đã được thành lập».[1][18]

Khi duyệt xét, Toà thánh đã loại bỏ hoàn toàn phần sau cùng : «Với những ai được xét là có thể, nên đề nghị họ gia nhập vào hội dòng các Đấng Yêu Mến Thánh Giá, theo luật lệ đã được thành lập».[1][19]

Sự kiện trên cho thấy :

– 1, Khi văn kiện của công đồng Đàng Ngoài được các thành phần tham dự ký nhận, dòng nữ Mến Thánh Giá chưa chính thức được đức cha Lambert de la Motte thành lập. Tuy nhiên, tinh thần và tổ chức của dòng đã thấy thể hiện khá rõ ràng, nếu không dám nói là một cách tuyệt vời. Khoản thừ 18 của công đồng này đã quy định một điều mà cho tới ngày nay vẫn còn được áp dụng, vì các «vị quản nhiệm các tỉnh hạt» ngày đó là những giám mục địa phận ngày nay. Các ngài cần luôn lo lắng cho các chị em Mến Thánh Giá.

– 2, Đức cha Lambert có tinh thần đạo đức khắc khổ, tôn sùng Thánh Giá và muốn đem tinh thần ấy hội nhập vào cộng đồng dân Chúa một cách rộng rãi nhất có thể. Ngoài ra, ngài rất gắn bó với việc thành lập và phát triển Hội dòng Mến Thánh Giá, nam và nữ.

– 3, Nhưng «ơn Mến Thánh Giá» là một ơn đặc biệt, một đặc sủng, không thể thích hợp với bất kỳ tín hữu nào trong dân Chúa, như Toà thánh đã ý thức vấn đề trên trong việc chuẩn duyệt văn bản công đồng xứ Đàng Ngoài năm 1670.

Thành lập dòng nữ Mến Thánh Giá

«Và bởi vì đức cha Béryte biết được đã có nhiều phụ nữ sống chung với nhau từ nhiều năm trời và họ đã làm lời khấn đơn, nên chủ yếu là cho họ mà ngài lập một bản luật khi viết cho họ lá thư sau».[1][20]

Lá thư luân lưu năm 1670[1][21]

«Các chị em yêu mến,

Từ khi ta đến vương quốc này, một trong những điều bận tâm chính của ta là tìm hiểu rõ tình trạng Giáo Hội ở đây. Trong bản phúc trình người ta đem lại cho ta, ta vô cùng vui mừng hay biết được chúng con đã dâng mình cho Thiên Chúa qua một lời khấn riêng : vì sự dấn thân này là một dấu hiển nhiên của lòng nhân lành đặc biệt Thiên Chúa trên chúng con, nên sự thật chính đáng là chúng con phải biết ơn Thiên Chúa hơn các kẻ khác mà Thiên Chúa đã không ban ơn rất cao cả dường ấy. Trong chiều hướng khẩn thiết trên, ta nghĩ là đề nghị cho chúng con một lối sống mà ta thấy là rất có ích cho vinh quang của Chúa.

Ta ban dạy cho chúng con lối sống ấy với rất nhiều tin tưởng; ta xác định với chúng con rằng từ lúc trước khi biết chúng con và cũng chưa hề bao giờ nghe nói đến chúng con, từ lâu lắm rồi, lòng ta đã được thúc đẩy là dựng nên luật lệ về lối sống ấy cho một số những tâm hồn được Thiên Chúa sủng ái cách đặc biệt. Vậy chúng con hãy đón nhận lấy lề luật ấy như từ Thiên Chúa mà đến hơn là do ta mà ra, và luôn luôn thâm tín rằng nếu chúng con theo con đường trọn lành ấy, chúng con sẽ đạt tới sự thông hiểu rất cao siêu và lòng yêu mến rất mật thiết với Chúa Giêsu Kitô, là điều chứa đựng mọi niềm hạnh phúc đời này và đời sau.»

Hội Mến Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô

«Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Bởi vì thánh ý của Thiên Chúa khi chết để cứu rỗi loài người là để đòi buộc con người phải chết cho chính mình mà chỉ sống cho duy mình Ngài, theo như giáo huấn của vị đại tông đồ dạy dân thành Côrintô : «Ngài đã chết vì mọi người, để ai sống thì đừng còn sống cho mình nữa, nhưng là cho Đấng đã chết và sống lại vì họ» (2 Cor. 5, 15).

Một vị chủ chăn phải có nhiệm vụ, đặc biệt trong một Giáo Hội sơ sinh, là làm cho hiểu chân lý trên vốn ít được biết đến nơi các Ki-tô hữu : chính trong chiều hướng ấy, sau nhiều năm trời tìm tòi những phương thế hòng đưa dẫn các tín hữu đến một công trình rất cao trọng như vậy, chúng tôi cảm thấy mình được đưa đẩy đến việc tạo lập, tại các nơi thuộc sứ vụ thừa sai của chúng tôi, một Hội dòng các kẻ Mến Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô mà lấy Thánh Giá Chúa làm việc suy niệm suốt cả đời mình cùng mỗi ngày thông phần vào các sự đau khổ của Chúa.

Một số tâm hồn đạo đức ở xứ Đàng Ngoài, từ lâu nay, đã dâng mình tuân giữ sự khiết tịnh và đã am hiểu chân lý trên. Họ tin rằng họ không thể tỏ ra lòng biết ơn Chúa ban cách nào hơn là gia nhập Hội dòng ấy. Và do lòng yêu mến Chúa Giêsu Kitô thúc đẩy, các tâm hồn này đã tỏ ra khao khát được biết điều họ có thể làm được hầu dâng hiến trọn vẹn cho việc phụng sự Chúa. Đó là con đường mà lòng nhân lành Thiên Chúa đã dùng để làm nền móng đầu tiên cho đời sống tu trì tại xứ Đàng Ngoài và xây dựng nên một Hội dòng riêng mang danh hiệu Mến Thánh Giá Con Thiên Chúa.

Mục đích của Hội dòng

Mục đích của Hội dòng này sẽ là hằng ngày làm việc suy niệm các sự thương khó của Chúa Giêsu Kitô, như phương thế hữu ích hơn cả hầu đạt tới sự cảm nghiệm và tình  yêu Chúa.

Công tác trước hết của những người đã chấp nhận lối sống này là liên lỉ kết hợp những dòng nước mắt mình, những nguyện ngắm mình và những việc đền tội mình vào công nghiệp của Đấng Cứu Thế, hầu nài van Thiên Chúa ơn trở lại cho những kẻ ngoại giáo ở khắp ba địa phận thuộc các Giám quản Tông toà và đặc biệt là những dân ngoại xứ Đàng Ngoài.

Công tác thứ hai là dạy dỗ các thiếu nữ, Ki-tô hữu cũng như ngoại giáo, các điều mà những kẻ cùng phái phải biết. Nếu vì những việc khẩn thiết tại nơi có đạo mà không hoàn thành được công tác trên, các chị em cần nhớ rằng khi họ có thể thực hiện, thì đó là một trong những công việc căn bản của các chị em.

Công tác thứ ba : các chị em phải săn sóc các phụ nữ và thiếu nữ bệnh hoạn hoặc Ki-tô hữu hoặc dân ngoại, hầu dùng đường lối ấy mà dẫn giải họ các sự thuộc phần rỗi và việc trở lại của họ.

Công tác thứ tư : các chị em phải lo lắng rửa tội, trong tình trạng cần thiết, các trẻ nhỏ bị nguy cơ chết mất trước khi được lãnh nhận bí tích Thánh tẩy.

Công tác thư năm sẽ là làm hết sức mình hầu lôi kéo các phụ nữ và thiếu nữ buông thả ra khỏi đời sống xấu xa của họ.

Các luật lệ

 Điều thứ nhất

Ai là kẻ thấy mình được gọi vào Hội dòng này phải làm ba lời khấn quen thuộc là khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, và chỉ được chấp nhận sau hai năm thử luyện.

Điều thứ hai

Trong mỗi nhà, vào lúc này, các chị em không thể vượt quá con số là mười người, kể cả chị Bề Trên.

Điều thứ ba

Chị Bề Trên và các chị có trách nhiệm khác sẽ được chọn lựa bởi chúng tôi hay vị tổng đại diện của chúng tôi, sau khi đã được ý kiến của ban quản nhiệm tỉnh hạt nơi các chị em ở.

Điều thứ bốn

Các chị em, về vấn đề vật chất, sẽ tùy thuộc vào vị quản nhiệm tỉnh hạt là kẻ mà các chị em nằm ở dưới quyền cai quản và các chị em hằng năm phải phúc trình tài sản vật chất cho vị quản nhiệm tỉnh hạt nói trên.

Điều thứ năm

Các chị em được miễn khỏi giữ luật nội cấm do sự bó buộc đặc biệt là các chị em cần chuyên tâm vào việc rỗi linh hồn của tha nhân theo thể lệ Hội dòng của mình. Bởi đó, các chị em khi ra khỏi nhà, vì mục tiêu trên, phải có phép của chị Bề Trên mình, và chị Bề Trên luôn luôn phải cho một người khác đi cùng chị em đến nơi mà chị em  được sai đến.

Điều thứ sáu

Tất cả các chị em phải lo làm việc chân tay vào những giờ không phải lo việc phục vụ tha nhân, trừ ra các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc. Vào các ngày nói trên, các chị em sẽ lần hạt mân côi Đức Bà và nghe sách thiêng liêng một nửa giờ đồng hồ, hoặc là về hạnh các thánh, hoặc là về một sách thiêng liêng nào khác.

Điều thứ bảy

Các chị em sẽ đi nghỉ vào lối chín giờ rưỡi tối và dùng một khắc đồng hồ để xét mình về các hành vi trong ngày và một khắc đồng hồ đọc kinh lớn tiếng; sau đó, các chị em đi ngủ.

Điều thứ tám

Các chị em sẽ dậy vào bốn giờ sáng để làm việc nguyện ngắm, bắt đầu bằng các kinh mà cộng đoàn các giáo dân vẫn đọc các ngày Chúa Nhật. Sau đó, các chị em làm một giờ suy niệm về một trong các đề tài đã được soạn ra về cuộc Thương khó và Tử nạn của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Bài suy niệm sẽ được chị Bề Trên hay chị nào giữ thay chỗ Bề Trên đọc. Tiếp theo, các chị em sẽ đọc kinh Cầu các thánh, kinh Cáo mình, kinh Thương xót; sau đó, đọc câu xướng «Lạy Chúa Kitô đã vì chúng con mà làm người cùng vâng lời cho đến chết, mà chết trên cây Thánh giá». Các chị em sẽ lập lại câu xướng ấy sau kinh Vực sâu; trong lúc đọc câu xướng và lời nguyện «Xin Chúa đoái nghe», phải đánh tội mà suy tưởng trong lòng các khổ hình mà Con Thiên Chúa đã phải lãnh chịu, cùng dâng sự hy sinh nhỏ mọn ấy cho mục tiêu và thánh ý Chúa khi Người chịu các khổ hình và Ngài cũng muốn chúng ta cùng có chung một mục tiêu và một ý định như Ngài. Thản hoặc, nếu vì một lý do nào đó khiến không thể làm việc hy sinh trên chung với nhau hay là cùng một cách thức như vậy, các chị em  cần làm thay cho trọn việc buộc ấy bằng cách mang trên mình một dây xích sắt nào đó hoặc thực hiện một việc hãm mình nào khác theo lời dạy của cha giải tội các chị em là người sẽ thay thế được phép luật nói trên.

Điều thứ chín

Vào ngày Chúa nhật Lễ Lá cùng bốn ngày tiếp theo, các chị em phải làm gấp đôi việc hãm mình thường nhật đó; vào ngày thứ Sáu tuần Thánh, phải làm gấp ba lần để tôn kính ngày thánh của cuộc Thương khó và nhất là ngày Tử nạn của Con Thiên Chúa.

Điều thứ mười

Các ngày lễ Cắt Bì, lễ Tìm thấy Thánh Giá và lễ Tôn vinh Thánh Giá sẽ là những ngày được tôn kính riêng của các chị em.

Điều thứ mười một

Các chị em chỉ dùng hai bữa ăn mỗi ngày : một bữa vào ban sáng và một bữa vào ban chiều và kiêng thịt suốt đời, trừ ra các ngày lễ Giáng Sinh, Phục Sinh và Hiện Xuống.

Điều thứ mười hai

Các chị em sẽ ăn chay các ngày thứ sáu để tưởng niệm những khổ hình và sự chết của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Vào các ngày thứ sáu cùng các ngày ăn chay, các chị em không được ăn gì trước 10 giờ sáng.

Điều thứ mười ba

Các phụ nữ và các thiếu nữ tội lỗi hối cải mà muốn theo Hội dòng thì cũng giữ những mục đích, những công tác, những bó buộc và những phép tắc như các chị em; nhưng họ phải làm một ngôi nhà và một cộng đoàn tách biệt ra. Và chị Bề Trên của họ luôn luôn phải được lấy trong số những người không hề sai phạm.

Điều thứ mười bốn

Thánh quan thầy của Hội dòng sẽ luôn luôn là Thánh cả Giuse mà nhờ người bầu cử để xin Thiên Chúa cho được sự thành lập, sự phát triển và sự hoàn thiện hóa Hội dòng.

Các Quy Chế này đã được đặt ra do chúng tôi là Giám mục Bérytê, Giám quản Tông tòa, cho các phụ nữ và thiếu nữ đạo đức và tội lỗi, là những người từ lâu đã khấn giữ khiết tịnh hoặc sẽ khấn sau này trong xứ Đàng Ngoài và ở các nơi khác thuộc ba địa phận Tông tòa Trung Hoa.

Các Quy Chế này, chúng tôi xin đặt dưới sự thẩm định và duyệt xét của Tòa thánh là đấng duy nhất có quyền chuẩn nhận hoặc bác bỏ các tổ chức tương tự.

Làm tại xứ Đàng Ngoài, ngày … tháng hai năm 1670. »[1][22]

Như chúng tôi đã trình bày ở chương trước : khi đức cha Lambert de la Motte nhóm công đồng tại Phố Hiến, đưa ra một kỷ luật rất khắc khổ, cũng như thành lập dòng nữ Mến Thánh Giá Đàng Ngoài với những quy luật thật nghiệm ngặt, ngài cũng như mọi người tại Đàng Ngoài chưa hề hay biết rằng ở Roma, Thánh bộ Truyền bá Đức tin và chính đức giáo hoàng Clément IX đã hoàn toàn bác bỏ chương trình «Hội dòng tông đồ» của ngài từ năm trước, (ngày 13.8.1669 do Thánh bộ và tháng 9.1669 do đức giáo hoàng). (Còn tiếp)

LM. Giuse Đào Quang Toản

Thích, theo dõi và chia sẻ!


Các tin mới cập nhật:

Lời hay ý đẹp

HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ GÒ VẤP

523A  Lê Đức Thọ, P.16, Q. Gò Vấp, Tp HCM
ĐT: 028 38941492
Email : vanphongnhamemtggv@gmail.com
Web: https://hdmenthanhgiagovap.info

RSS
YouTube
YouTube