TRUYỆN DÌ YSAVE ĐỆ
« Cha Philpphê Minh tử vì đạo ngày mồng 3 Juillet năm 1853, cùng đã đặng tặng lên bực đáng kính, thì là người quê quán ở xứ Cái mơn.
Kiến họ người cũng là một kiến họ rân rát trong xứ nấy. Chôn xác Người cách 17 năm, là năm [p. 72] 1870, thì đã lấy cốt sang qua hòm nhỏ trọng hơn, mà óc Người hãy còn nguyên vẹn, cùng để vào trong hòm ấy, đoạn giao cho nhà phước Cái mơn gìn giữ.
Từ ấy người đã dìu dắt nhiều cháu đến ở gần giữ Người ; đã có 16 người bỏ thế gian vào ở nhà phước Cái mơn, song bây giờ đã có 6 người lìa khỏi nơi sủng khóc lóc nầy. Bấy nhiêu người ấy có lòng tử tế cùng có trí trung, song nhứt là có một người tên là dì Ysave Đệ đã vào nhà phước thuở 18 tuổi, là năm 1874, thì chẳng bao lâu đã trổi hơn chúng bạn, sốt sắng, hiền lành, khôn ngoan hơn, học hành giỏi giắn hơn và tấn tới trong đàng nhơn đức mau hơn. Cách 2 năm, là năm 1876 thì đã cho chị ấy khấn hứa cùng đã sai đi dạy trường nam trong họ.
Cuối năm 2 trường thi, và lãnh phần thưởng, thì thuở nay mới một lần nầy trường nam lấn hơn trường nữ mà thôi. Qua năm sau thì trong nhà phước đã chọn dì ấy giúp bà Bề trên mà dạy các chị kỳ thử học hành, cùng tập đi đàng nhân đức. Và những đều kẻ bề trên đã phú cho dì ấy dạy là đọc tiếng Annam cùng tiếng Latinh, viết các tuồng chữ, phép toán, phép đo, hát thường cùng hát lễ nhạc, song nhứt là dạy cho biết [p. 73] nghĩa sách phần, cho biết dọn chầu nhưng chịu phép rửa tội, cho biết dọn người đạo mới chịu phép Bí tích, dạy Sấm truyền cũ mới, cùng chỉ vẽ cho biết nghề kim chỉ, hầu sau dạy lại học trò, như may vá, thêu hoa, thêu ren, thêu nệm làm bông v.v. Ấy là những cuộc học hành kẻ Bề trên biết dì ấy sốt sắng và giỏi giắn thì đã giao cho dì ấy áp tắc và thật đã làm xong việc lắm.
Cuộc học đờn thì chẳng bao lâu dì ấy đánh theo kinh Hội thánh xuôi xả. Cho nên có chín mười dì học lại với dì ấy, thì dạy được con trẻ ngoài họ hát kinh Hội thánh cùng biết hòa đờn theo tiếng nó nữa.
Song nhứt là trong việc tập tành các chị đi đàng nhơn đức theo bực tu hành, thì thật là dì ấy đáng gọi là thầy các chị kỳ thử, cùng thật là người thượng hạng. Trước hết, những đều dì ấy tập luyện những kẻ đã phú cho mình, thì dì ấy cũng làm gương rất trọn lành ; cách ăn ở thật là người sốt sắng, hằng giữ lòng chơn chánh, thật thà, kính mến Chúa, thương yêu người ta, hằng từ bỏ mình, hằng giữ lòng trí bình tĩnh yên ổn. Dầu khi dạy chung các chị, dầu khi dạy riêng từng người, thì dì ấy đều dạy [p. 74] cho biết cầm trí cầm lòng, biết đọc kinh nguyện gẫm luôn, biết ưa làm việc, biết chịu khó, biết ước ao chịu xấu hổ, biết kinh dể thế gian, cùng những sự giả trá nó, biết từ bỏ mình, biết giữ nết nhiệm nhặt cùng giữ lề luật cho chín chắn. Bổn tính mỗi chị, tư chất tốt cùng tính nết xấu, thì dì ấy thấu hiểu rõ ràng. Cho nên những đều hằng năm dì ấy phải đến nhiều lần cùng tôi (P. Gernot) mà thưa về những kẻ đã phú cho mình thì tôi cũng rất đỗi nhờ mà làm phước cùng coi sóc những linh hồn ấy.
Bởi dì ấy hiền lành nhịn nhục, cùng ở hết lòng với chị em như mẹ với con, thì chẳng bao lâu các chị liền đem lòng tin cậy mọi đàng, đến đỗi trong cuộc tới lui với dì ấy thì chẳng còn chút gì nghi ngại, một hết lòng thật thà mà tỏ bày cho thầy mình biết những đều mình sợ sệt, những đều buồn rầu, những sự lỗi, những sự mình nghi nan, những chước cám dỗ, những đều bối rối trong lương tâm, cùng có khi dầu dì ấy chẳng muốn nghe chút nào, thì cũng nói tội mình ra nữa, và nhiều lần cực chẳng đã, dì ấy phải nghe lời các chị xin mà đi thưa giùm việc linh hồn cùng cha giải tội. Cho nên mỗi khi cấm phòng năm và cấm phòng tháng thì công việc tôi ra dễ lắm.
Khi đã thử một hai năm, cùng có khi một hai tháng [p. 75] thì đã đủ cho dì ấy đoán chắc người nào có ơn Chúa kêu gọi hay là không. Vì vậy mỗi năm tôi có cho nhiều chị kỳ thử về nhà, vì đã biết Chúa chẳng kêu gọi vào bậc tu hành. Đã 5 năm trước tôi đã đặt một người phụ lực với dì ấy để mà xem sóc các chị kỳ thử, song việc cai trị thì hãy còn về một tay dì ấy mà thôi. Những mãng lo lắng càng làm nhiều công việc dường ấy, thì lần lần sức đã hao mòn, và tôi nghe nói đau rang nơi ngực, thì tôi liền phát sợ, nhưng mà thương ôi ! sợ cũng chẳng khỏi.
Cách 2 năm trước, là năm 1884, nhằm ngày lễ Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, dì và đánh đờn và hát câu riêng trong kinh Glôriôsa, tại nhà thờ họ, hát tiếng mạnh mẽ và thanh bai, nghe thảnh thót cả và nhà thờ, thật chẳng chuyến nào dì ấy hát hay cho bằng chuyến ấy. Song thương ôi ! là chuyến sau hết, về vừa tới nhà phước thì dì ấy thổ huyết nặng lắm. Tôi đã chọn thêm một dì khác nữa, cũng là cháu cha Philipphê Minh, cùng bà con với dì ấy, mà đặt lên phụ việc xem sóc [p. 76]các chị kỳ thử, còn dì ấy thì tôi dạy nghỉ hết mọi việc. Đã cho dì ấy uống nhiều thứ thuốc, thuốc tây, thuốc Annam, thuốc khí nháng, thứ nầy tới thứ khác, cũng chẳng ra chi. Cho uống thứ nào thì dì ấy cũng uống, song mỉm cười mà nói rằng : « Mạnh lại làm chi ? Cậu con đã đổ hết máu mình ra một lượt vì Đức Chúa Giêsu, con cũng đổ máu con ra vì Đức Chúa Giêsu, và con đổ ra cho đến giọt sau hết nữa. » Trong 2 năm đau đó, thì tôi đã dạy dì ấy và các chị kỳ thử làm việc chín ngày, làm đi làm lại nhiều lấn khi thì có ý kính Đức Bà hiện ra thành Lourdes, khi thì kính Đức Bà phù hộ, khi thì kính cậu mình là cha Philipphê Minh tử đạo, nhưng mà xem ra tiếng hèn mọn chúng tôi không thấu tới trời. Dì ấy cứ thổ huyết nhiều lần kế lấy nhau, cho nên bịnh một lâu một ra nặng và chẳng bao lâu thì dì ấy không còn ra phòng kẻ liệt được nữa.
Vã lại phòng kẻ liệt cũng ở trong nhà các chị kỳ thử cho nên dì ấy ở đó cũng là ở giữa con cái mình liên, và xưa nay những khuyên lơn an ủi chẳng biết là bao nhiêu, bây giờ nằm đó trong mấy tháng chầy, thì hãy còn làm được có một việc mà thôi, là làm gương hiền lành, chịu khó nhịn nhục như đấng thánh vậy. Nhưng mà bịnh càng ngày càng tấn, thì dì ấy chẳng còn sức lực gì nữa ho [p. 77] một hai tiếng cũng gần chẳng đặng. Dầu vậy, tôi cũng đem lòng trông cậy Đức Mẹ trả lại cho tôi một người làm việc có tài có đức dường ấy, thì tôi đã dạy làm việc chín ngày một phen sau hết mà kính Đức Mẹ hiện ra nơi thành Lourdes, và phải khỉ sự cho ngày sau hết trúng nhằm ngày lễ Đức Mẹ xuống tuyết, đoạn ngày 25 tháng bảy tây, tôi đi Mỹ tho mà giảng toàn xá, rồi thì tuần sau lại xuống Thủ ngữ mà giảng đó nữa. Đến ngày Chúa nhựt là ngày mồng 8 tháng 8 tây, tôi về tới nhà chừng 7 giờ sáng, tức thì tôi xuống nhà thờ nhà phước cho đặng làm lễ. Cám ơn Chúa đoạn, tôi sang qua phòng kẻ liệt mà thăm dì bịnh, và bảo dì ấy hay, tôi mới hứa làm 9 ngày lễ để kính Đức Bà, lại nói cho dì ấy, chắc ngày lễ Đức Bà mông triệu thăng thiên mình sẽ đặng lành. Tôi bước vào tôi kiếm… Không ai hết ! Tôi lên tiếng rằng : Chị giữ kẻ liệt, chớ nào chị Đệ ở đâu ? Dì ấy rằng : Thưa Cha ! Dì ấy chết chôn rồi. Tức thì liền bắt tấm tức. Mọi người chạy đến vây xung quanh tôi. Ai nấy khóc mùi mẫm. Đoạn thì [p. 78] các dì thuật truyện dì Đệ đã chết tốt lành trước mặt Chúa thể nào. Vậy ngày mồng 3 tháng 8 tây, chừng nửa đêm, dì ấy chịu các phép bí tích đoạn, thì thở gần như chẳng đặng nữa, còn nói một hai tiếng nghe không hiểu được, bời rời từng tiếng, và coi bộ rán sức lắm ! Đang khi bà nhứt và gần đủ mặt các dì các chị quì gối đọc kinh giõi linh hồn, thì người ta hiểu ý dì ấy muốn xin nước phép lạ Đức Chúa Bà, vừa nuốt vào được một hai giọt, thì con mắt đã khác sắc rồi, và đã lờ lệt, tức thì liền bảnh lảnh lại, gương mặt tươi trắng lại và hơi thở còn lại mực thường. Dì ấy liền kêu Giêsu, Maria. Đoạn lấy hai tay vuốt mặt, ngó các dì các chị mà cười, và khoát mền ra mà nói tiếng trong trẻo như hồi mạnh rằng : Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông ta đã kêu xin và đã trông cậy dường ấy, có lẽ nào mà không nhậm lời ta ! Bây giờ tôi mạnh rồi, không đau gì nữa hết. Thôi, hết rồi ! Dì ấy ngó lại các dì ở chung quanh mình mà cười, đoạn thêm rằng : Hãy đỡ tôi dậy, tôi muốn đi. Bà nhứt và ai nấy đều sảng sốt và tin là phép lạ. Đương khi người ta vịn dì ấy ngồi trên giường, thì có một dì lấy tượng ảnh Đức Chúa Bà hiện ra nơi thành Lourdes đã treo trên phía đầu nằm, mà trao cho dì ấy, thì hai tay nắm lấy tượng ảnh, miệng [p. 79] thì mĩm cười mà nói rằng : « Nầy là Đức Chúa Bà, nầy đây. » Dì vừa nói làm vậy thì hai tay liền xùi xuống, và đương còn mĩm cười với Đức Mẹ thì linh hồn lìa khỏi xác, theo Đức Mẹ về nước thiên đàng.
Ấy là truyện người cháu rất xứng đáng của Cha Philipphê Minh tử đạo đã qua đời. Thật là người rất đỗi có lộc vì khi ra trước tòa Đức Chúa Giêsu là Vua các nữ đồng trinh, thì áo trắng Người đã ban cho khi chịu phép rửa tội, hãy còn toàn hảo chẳng chút bợn nhơ. Khi ấy dì Đệ chừng 30 tuổi. Dầu còn trẻ làm vậy, nhưng mà chị em cùng các kẻ Bề trên có lòng tin cậy, thì cũng đã tính ngày sau chọn lên nối quyền bà nhứt.
Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên.
Xin vưng ý Chúa mọi đàng.
Dì Ysave Nguyễn Thị Đệ sinh ra năm 1856. Vào nhà phước Cái-mơng năm 1874. Khấn hứa năm 1876 ngày lẽ Đức Chúa Bà Môi Khôi. Chết ngày mồng 4 tháng 8 tây năm 1886.
Câu chuyện này đã được cha Gernot Quí tường thuật bằng tiếng Pháp và đăng trên tờ báo “Annales de la Société des Missions-Etrangères”, tại Paris, năm 1903, trang 107-110, tựa đề là “Notice sur Elisabeth Dê”
Người viết chuyện : Cha Gernot Quí