Trải qua bao biến cố thăng trầm, chị em Mến Thánh Giá vẫn trung thành bảo toàn ơn gọi và thi hành sứ mạng đặc biệt của Dòng với sự sáng tạo, thích nghi cần thiết, tuỳ hoàn cảnh địa phương và khả năng của mình. Mọi sáng tạo thích ứng đó luôn trung thành với con người và thời đại, Đức Kitô và Phúc Âm của Người, Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới, đời sống tu trì và đặc sủng của Dòng. Chúng ta sẽ lược qua những sinh hoạt tông đồ của các nữ tu Mến Thánh Giá từ lúc mới thành lập Dòng cho đến hôm nay.
- Giai đoạn hậu bán thế kỷ XVII
Có thể nói, ngay từ những ngày đầu khai sinh, Dòng Mến Thánh Giá đã hiện diện trong hoàn cảnh xã hội vô cùng khó khăn, gian nan thử thách. Mặc cho nguy nan bao vây tứ bề, các nữ tu Mến Thánh Giá vẫn hoà nhập vào nhịp sống của Giáo Hội và xã hội bằng sự dấn thân không biết mệt mỏi. Các chị đã không ngừng thi hành sứ mạng truyền giáo theo tinh thần Đấng Sáng Lập trong sự âm thầm và lòng yêu mến Giáo Hội. Hình ảnh các “Bà Mụ Mến Câu Rút” ở Đàng Ngoài và các “Dì Nhà Phước Mến Thánh Giá” ở Đàng Trong đã khá quen thuộc với đa số giáo dân Việt Nam. Hình ảnh quen thuộc nhất có lẽ là từng nhóm hai người Nhà Mụ quẩy gánh thuốc viên, hoặc hai Dì Nhà Phước tay mang tay nải đầy thuốc gia truyền, rảo khắp các nẻo đường bán thuốc chữa bệnh cho ngườì bình dân, như một kế sinh nhai khiêm tốn, và thi hành sứ mạng tông đồ là tìm trẻ nhỏ lâm cơn nguy tử để rửa tội, và khuyên bảo người ta chăm lo phần rỗi linh hồn…
2. Thế kỷ XVIII – XIX
Dù trong hoàn cảnh nào, các chị Mến Thánh Giá vẫn luôn dấn thân phục vụ Tin Mừng. Đặc biệt trong cơn bách hại, các chị cũng đã chịu chung số phận như các tín hữu khác, rất nhiều nữ tu hiến mình chịu chết vì đức tin. Ngoài ra, vai trò và những việc làm khác của các chị không kém phần ý nghĩa khi so với hành động tử vì đạo, vì những việc làm này vừa thể hiện sức mạnh của đức tin, vừa giúp bảo vệ hàng ngũ lãnh đạo của Giáo Hội, vừa củng cố và duy trì cộng đoàn các tín hữu. Các Tu Viện trở thành nơi ẩn núp cho các vị thừa sai và linh mục bản xứ. Các nữ tu nhờ y phục thường dân, dễ ra vào nơi lao tù để thăm viếng, tiếp tế lương thực, nhất là đem Mình Thánh Chúa cho các đấng anh hùng tuyên xưng đức tin; liên lạc, trao thư từ cho các thừa sai và linh mục bản xứ đang phải ẩn trốn. Những nơi mà linh mục không thể vào được, thì các chị mạnh dạn đi tới để an ủi kẻ đau khổ, cứu giúp người yếu đuối, nâng dậy các kẻ đã chối đạo. Các chị đã đồng hành cùng các chứng nhân đức tin từ tòa án đến pháp trường. Khi các sắc chỉ cấm đạo của Nhà Vua ban ra, các Tu Viện bị phá huỷ, các chị phân tán về gia đình nhưng vẫn gan dạ vào làng rửa tội cho trẻ em nguy tử. Vì thế, rất nhiều chị em đã bị bắt, bỏ tù, bị đi đày đến cả đổ máu đào vì Chúa và Tin Mừng[1].
Về giáo dục thiếu nữ, chúng ta biết rằng đa phần phụ nữ thời đó đều thất học và trẻ nữ cũng ít được học hành, nên hoạt động “giáo dục thiếu nữ” đã không thể bao hàm hoạt động giáo dục học đường như ngày nay. Nhưng chắc hẳn các nữ tu Mến Thánh Giá cũng đã tham gia dạy đạo, cộng tác với các linh mục và thừa sai, dẫu cho việc làm này có thể gây nguy hại cho các chị. Một thừa sai xác nhận vào năm 1715: “Các nữ tu Mến Thánh Giá, tuy nhút nhát tự nhiên theo giới tính, đã bí mật thực hành công việc của một người dạy giáo lý cho phụ nữ và thiếu nữ Công Giáo. Bão tố sớm đến với các chị. Chỉ riêng trong tỉnh Nghệ An, ba nhà đã bị phá huỷ […]. Một số trong các nữ tỳ nhiệt thành này của Đức Kitô đã bị bắt và chịu những khổ cực kéo dài trong tù đày; những người khác phải về tá túc ở nhà cha mẹ, và những người khác nữa phải đi ăn xin”[2].
Các nữ tu Mến Thánh Giá thời kỳ này đã thực hiện một nếp sống tu trì mẫu mực, theo sát tinh thần và quy định của Luật Tiên Khởi. Ngoài lao động chân tay nhằm bảo đảm cho một cuộc sống thanh đạm và khổ chế, các chị cũng đã tham gia công việc truyền giáo theo khả năng và phương cách riêng của các chị. Đức Cha Néez nhận định: “Các nữ tu Mến Thánh Giá cộng tác vào công cuộc truyền giáo bằng nhiều việc. Những việc làm này tuy nhỏ bé và âm thầm nhưng được đánh giá là giúp ích rất lớn”[3].
Qua những việc dấn thân phục vụ này, các nữ tu Mến Thánh Giá “thường được các tín hữu và cả lương dân yêu mến và quý trọng”[4]. Đức Cha Retord kể lại trong thư gửi cho cha Laurent ở Lyon vào tháng 01/1846: “Họ đi thăm viếng và an ủi những người đau yếu, giúp chúng tôi dạy dỗ các phụ nữ dự tòng…”[5].
Một trong những hoạt động tông đồ của chị em Mến Thánh Giá là rửa tội cho trẻ em nguy tử, nhất là trong những năm đói kém, dịch bệnh[6]. Riêng năm 1812, “các chị rảo khắp nơi và rửa tội cho khoảng 51.000 sinh linh bé bỏng, nay cũng là từng ấy thiên thần nhỏ, ngời sáng vẻ vô tội và niềm hạnh phúc trước Toà Thiên Chúa”[7]. Theo linh mục Đinh Thực, “từ năm 1835 đến năm 1844, ở Đàng Trong có 23.445 trẻ em đã được rửa tội; trong năm 1854, 13.581 trẻ em đã được rửa tội trong cùng miền truyền giáo này. Chỉ tại Qui Nhơn, mỗi năm các chị Mến Thánh Giá rửa tội trung bình 10.000 trẻ em trong những năm trước năm 1886”[8].
Trong những lúc đồng bào gặp cảnh đói khổ vì thiên tai, các nữ tu hy sinh một phần nhà của mình để đón tiếp các phụ nữ đau yếu và các trẻ mồ côi[9].
Một đóng góp hữu ích của các nữ tu Mến Thánh Giá là công việc dạy dỗ các thiếu nữ. Trong thư ngày 02/06/1830 gửi cho Hội Truyền Bá Đức tin, Đức Cha Taberd cho biết đang có 16 Nhà dòng Mến Thánh Giá, “tất cả các nhà này sẽ đón nhận các người cùng giới để dạy dỗ và đào tạo họ các công việc thích hợp”. Về hiệu quả của công việc này, Đức Cha Taberd viết: “Thật là một lợi ích lớn lao cho các họ đạo khi có các nữ tu, ngay cả cho các họ đạo lân cận. Chỉ những người ở rất xa mới không được hưởng lợi. Phương cách duy nhất để làm cho các trường này nên hữu ích cho cả miền truyền giáo là cung cấp một số trợ giúp cho các nữ tu, qua đó, các chị có thể ở trong tình trạng đón nhận miễn phí một vài người của mỗi họ đạo. Những người trẻ này, sau khi về lại nhà mình, sẽ trở thành những người mẹ tốt của gia đình, và qua gương sáng cũng như qua những lời dạy dỗ của họ, sẽ là gương mẫu và sự nâng đỡ cho bạn hữu”[10].
Như vậy, sự hiện diện của các nữ tu Mến Thánh Giá trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, được đánh giá là “rất quý báu, nhất là trong những cuộc bách hại”[11]. Dù có khó khăn ra sao, trong khi làm những việc tông đồ, các nữ tu Mến Thánh Giá chú tâm phục vụ ưu tiên cho giới nữ, đây chính là điều mà Đức Cha Lambert thao thức và đặt kỳ vọng vào những nữ tu Mến Thánh Giá. Trong Luật Tiên Khởi ngài viết cho những người con tinh thần của ngài: “Dạy những thiếu nữ, giáo cũng như lương, những điều nữ giới cần biết. Nếu vì tình huống hiện nay xảy đến cho đạo thánh không thể làm được, chị em hãy nhớ rằng khi hoàn cảnh cho phép, thì đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình”[12]. Đó là một trong những nhiệm vụ chính của nữ tu Mến Thánh Giá. Tình yêu của Đấng Sáng Lập đã thâm nhập sâu xa vào đời sống của người Việt, ngài hiểu thế nào là vị thế của người nữ trong văn hoá Việt, ngài hiểu đâu là những thiệt thòi mà nữ giới phải chịu, và đâu là tầm quan trọng nếu người nữ trong gia đình có được sự giáo dục tốt.
Suốt một quá trình dài, tinh thần tu trì và đời sống phục vụ của các nữ tu Mến Thánh Giá đã được xây nên bằng máu, nước mắt và đức hạnh. Các chị là những người thuộc về những thế kỷ trước, nhưng nền móng của các chị dựng lên vẫn còn vững bền cho đến hôm nay và mai sau.
[1] Đinh Thực, sđd., tr.93.
[2] AMEP, vol. 131, p.571.
[3] Ibib., vol. 1100, p.412.
[4] Ibib., vol. 690, p.613.
[5] Ibib., vol. 697, pp.830-831.
[6] Cf. Nouvelles Lettres Édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales (NLE), vol. 8, Paris, le Clerc, 1821, pp.319-320.
[7] Abbé Migne, sđd., col. 94-95.
[8] Đinh Thực, sđd., tr.91.
[9] Cf. NLE, vol. 8, p.289.
[10] APF, vol. 5, 1831, p.396.
[11] L’Ami de la religion, journal ecclésiastique, politique et littéraire, tome 127, Paris, Le Clerc, 1845, p.584.
[12] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi”, sđd., III,2, tr.29.