Đức Cha Lambert Viếng Thăm Đàng Trong Lần Đầu (P4)

ĐỨC CHA LAMBERT VIẾNG THĂM ĐÀNG TRONG LẦN ĐẦU
Ký Sự của cha Vachet

Chương VI
Lập dòng Mến Thánh Giá

Tin đồn bách đạo.
Các linh mục người Việt đã rất lo sợ cuộc bách đạo lại tái diễn sau khi cha Hainques và cha Brindeau qua đời. Bởi vì cha này chỉ sống sót sau cha kia được 3 tuần lễ, các ngài đã không có giờ mà lo liệu cho Giáo Hội của họ có các thừa sai khác hầu nâng đỡ họ trong cơn bão tố. Nhưng Thiên Chúa đã thương xót sự lo sợ chính đáng của các linh mục ấy và Ngài đã muốn nhận lời cầu nguyện tha thiết của họ dâng lên Ngài trên bàn thánh. Ngài ban cho các giáo hữu được sống trong bình an trọn vẹn cho tới lúc Đức cha Bêrytê đến nơi để khích lệ họ trong cơn chiến đấu.
Quả thế, lúc vị giám mục này ở xứ Quảng Ngãi, có tiếng đồn lan khắp nơi rằng người ta lại bắt đầu bách bớ đạo trong xứ Ca Chàm. Mỗi ngày người ta lại nhận được những tình tiết mới về chuyện bách bớ. Kẻ này nói rằng người ta bắt lẫn lộn đủ hạng giáo dân trong xứ đó, người ta đánh đập họ tàn nhẫn, và người ta còn thấy mấy người bị chặt các ngón tay nữa. Kẻ khác thêm rằng đã có lệnh trên truyền xuống tìm kiếm những giáo hữu trong xứ chúng tôi đang ở nữa, và người ta đang chờ ngày lễ trọng nào đó để bắt được nhiều người nhất trong những buổi họp cầu kinh. Có kẻ còn cố thuyết phục chúng tôi tin rằng ở triều đình, người ta biết rất rõ là có một giám mục và mấy giáo sĩ đến đây nữa.

Có lễ vật cho vua không ?
Rồi vào một ngày nọ, có một người đàn ông đến xưng mình là gia nhân của một vị quan đại thần. Ông ta nói nhiệm vụ của vị quan đó là tiếp nhận các quà biếu của tất cả các người ngoại quốc trước khi được dâng lên nhà vua. Ông ta, sau khi chào kính Đức cha Bêrytê thay mặt quan chủ nhân của ông, tuyên bố với ngài rằng ông ta đến lấy những món quà mà ngài mang theo, thừa lệnh mà ông ta đã nhận. Và ông ta trình ra giấy lệnh đúng mẫu mực, có chữ ký và có con dấu ấn.
Có thể người đàn ông này đã đi tới gặp Đức cha Bêrytê do lệnh của hai mệnh phụ có đạo tại triều đình hơn là do lệnh của vị quan đại thần. Bởi vì, một vị quan khác là người có đạo nói với cha Guyart rằng chính người đàn ông này, khi biết có một vị đại diện tông tòa đến trong xứ Phủ Mới, đã mang tin tới triều đình và tới hai người chị em của hoàng hậu. Hai mệnh phụ này đã trở lại đạo, quyết định viết thư nhờ người đàn ông này đem tới vị giám mục xem ngài có mang theo quà cáp biếu nhà vua không, để còn lo toan chuyện tiếp kiến vua được dễ dàng. Hai bà góp ý rằng nếu ngài không có gì dâng nhà vua, thì ngài nên giữ bí mật nhất có thể việc ngài tới đây.

Tìm giải pháp.
Bởi vậy ngài quyết định ẩn mình đi một ít lâu và cấm không cho tín hữu đến từng đoàn lũ như thói quen của họ nữa. Nhưng lòng sốt mến của tín hữu đã làm ngài vượt lên trên nỗi lo ngại, ít nữa là đối với quần chúng bình dân. Bởi vì đối với những kẻ vị vọng hơn, trong tình cảnh này, chúng tôi cảm nghiệm rõ rằng địa vị xã hội và của cải khiến họ đâm ra nhút nhát trong lúc những kẻ khác, thay vì mất can đảm đi, thì lại cảm thấy kiên cường hơn nữa vào những dịp tương tự.
Những người giầu có thì cứ run lên sợ hãi người ta tới bắt chúng tôi, và sợ chúng tôi bị bắt thì họ sẽ bị mất của cải. Người nghèo thì ngược lại, thay vì lo sợ, lại tỏ ra một niềm vui và một niềm kiên vững khó diễn tả được. Ngày hôm trước đó họ còn tin rằng họ sẽ dâng cho Thiên Chúa những dấu chứng trung thành bằng cái chết can đảm. Và họ chẳng có một đam mê vui thú hay đam mê lợi lộc nào là cái thường hay gắn chặt con tim những người sung túc trần gian này vào hạ giới. Họ từ khắp nơi kéo tới, ngày và đêm, bất chấp lệnh ngăn cấm. Nhà thờ xứ Bào Tây nơi chúng tôi ở, gần như lúc nào cũng đầy người. Vì đám đông này, thay vì thêm gương sáng và khích lệ những bậc vị vọng, lại làm họ thêm lo sợ. Đức cha Bêrytê để nhún nhường trước sự yếu đuối của họ, đã quyết định rút lui ẩn mình đi cách đó một dặm đường, vào nhà một bà góa tên gọi là bà Lucia. Bà này là cô ruột của người mà chúng tôi đã trú ngụ.

Những tín hữu can đảm.
Ông chủ nhà bác ái và bà vợ ông có đức tin mạnh mẽ nên cả hai người hay than thở khi thấy những bậc vị vọng giữa các người đồng hương của họ nhát sợ như thế và khi thấy người ta, sau khi chúng tôi đi khỏi, ép họ phải cẩn thận canh phòng những quấy phá đang đe dọa. Tính khí họ rất dễ chịu. Họ luôn trả lời rằng họ chẳng có chi để thu quén dọn dẹp, họ thấy được sung sướng khi xưng mình có đạo, và họ sẽ sẵn lòng cho đi các tài sản và mạng sống của họ mà làm chứng cho Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô. Thái độ thanh thoát này, thật cao cả trên môi miệng họ lúc đó, đã tỏ ra rất thành tâm trong thực tế. Và vì họ cảm thấy bực bội khi cuộc bách đạo không làm họ bị tước sạch của cải, họ tự ý từ bỏ bằng cách trao đặt hết vào tay chúng tôi để sử dụng cho Giáo Hội. Và vì không thể dâng hiến đời họ cho tình yêu Đấng Cứu Thế yêu dấu của họ, họ cho chúng tôi đứa con trai duy nhất mà họ yêu thương còn hơn cả chính họ nữa, để ngày nào đó cậu ta sẽ phục vụ bàn thờ Thiên Chúa, nếu với thời gian người ta xét cậu có thể thành một tông đồ Phúc Âm.
Gương sáng đức khó nghèo tự nguyện mà họ thực hành sẽ sớm được bắt chước theo bởi chính người mẹ của họ, bà sống chung với họ, và bởi bà Lucia là cô của họ. Nhà của bà Lucia làm chỗ ẩn náu cho chúng tôi sau khi chúng tôi đã rời khỏi nhà của họ. Giáo dân thì lần theo dấu vết chúng tôi, kéo đến đấy từng đoàn lũ tìm chúng tôi. Trong thời gian 5 tuần lễ chúng tôi ở đó, họ tụ họp lại mỗi ngày để lãnh nhận các bí tích, rất bình thản như thể chẳng có chi phải lo sợ. Bà chủ nhà giầu lòng bác ái của chúng tôi mở rộng cửa cho tất cả mọi người với lòng nhiệt thành quả cảm.

Tiếp đón các trinh nữ.
Đức cha Bêrytê, theo kinh nghiệm, tin rằng bà quả phụ ấy là người đức hạnh và khôn ngoan, đã phán bảo cho bà hay dự kiến của ngài là quy tụ chung lại vài thiếu nữ có lòng ao ước giữ mình đồng trinh. Các thiếu nữ ấy đã cho viết đến ngài ở Xiêm La, mấy năm trước, qua cha Hainques, ý định của họ, theo đó họ đã khám phá ra niềm vui được tận hiến cho Thiên Chúa một cách trọn hảo nhất.
Dù phân tán trong nhiều làng mạc, các thiếu nữ ấy đã tụ họp lại, mà chẳng khó nhọc gì, để đến gặp gỡ Đức cha Bêrytê vào ngày mà ngài quy định trước cho họ. Đức cha nói với họ rằng ngài muốn bàn luận với họ việc thực thi ý định của họ và ngài đã cho họ một huấn từ nhỏ về đời sống tinh thần. Sau đó, các chị em đã đến theo ngày đã đề xướng, tại nơi đã đồng tình chọn lựa, cùng với hai bà quả phụ đã rất lớn tuổi. Và sau khi lãnh nhận các bí tích sám hối, thêm sức và thánh thể, họ cho biết khá rõ tâm hồn sẵn sàng của họ hầu cho thấy rằng ơn gọi của họ thật thiêng liêng.
Ngay khi xuất hiện trước ngài, các chị em quỳ rạp trên mặt đất để chào kính và nức nở khóc lóc vì vui mừng. Tiếp đó, giang đôi tay và ngước mắt lên trời, các chị em cảm đội ơn Thiên Chúa cuối cùng đã gửi đến cho họ cách kỳ diệu một con người đã đến giải thoát họ khỏi mọi cạm bẫy thế gian và dạy họ nghệ thuật dâng mình cho Thiên Chúa. Sau hết, họ phủ phục mà tỏ ra thỏa mãn trọn vẹn cho lòng ước ao của họ, và rằng họ vui mừng khi được đưa ra khỏi thế trần này và nhà cha mẹ của họ hầu sống trong sự thanh tịnh và trong sự trọn lành Phúc Âm.
Đức cha Bêrytê hỏi lý do nào đã đưa họ đến lòng ước ao cách sống này, và đồng thời ngài đặt tất cả mọi câu hỏi mà ngài thấy là cần thiết để đo lường lòng dạ các chị em, cùng để nhận biết ý Chúa trên họ. Họ trả lời tất cả mọi sự với một lòng thanh bạch và khiêm nhượng đến nỗi tất cả những ai đang hiện diện tại đó đều, một phần thì ngây ngất vì cách thức hành động của họ, một phần thì hoàn toàn chân nhận rằng tâm hồn họ đã được dự phòng bằng sức mạnh ân sủng Chúa.
Vào lúc đó, chúng tôi ngập chìm trong một ấn tượng sâu sắc mà các chị em ấy tạo nên đến độ tôi không còn biết đến bao giờ sẽ có một sự gì khiến chúng tôi thiết tha với sự trọn lành riêng của chúng tôi một cách dịu dàng và nồng nhiệt hơn thế nữa. Bởi vì những lời thần thiêng đó mà chúng tôi nghe được đã đưa tinh thần lên cao hơn cả chính mình và cho nếm vị ngọt ngào khó diễn tả được về Thiên Chúa, thoát khỏi cái tình ý nơi mọi sự trần giới này.
Đó là những mối hoan lạc tinh thuần và thánh thiện mà đôi khi Đấng Cứu Chuộc trần gian đã ban cho những kẻ làm việc tông đồ được hưởng nếm. Lúc đó, Ngài vui lòng cho họ khám phá ra những đường lối mà những kẻ Ngài kén chọn đang được sự khôn ngoan cùng lòng từ bi Ngài dẫn dắt. Ngài cho họ thấu hiểu rằng đó là kết quả mà Ngài ban cho họ như hoa trái riêng nơi những tâm hồn cao cả nhất về sự khiêm nhu, thờ kính, tri ân và tình ái thiêng liêng. Lòng sốt mến của những tâm hồn ấy còn khiến cảm nhận được cả ra bề ngoài nữa.
Dù gì đi nữa, sau một bài giảng dạy dài giờ, Đức cha Bêrytê đã thán phục mà nhìn nhận sự cao sang cùng sự đồng tâm nhất ý sẵn sàng của các nữ đồng trinh đầu tiên xứ Đàng Trong này. Ngài phán với họ rằng nếu chỉ chiếu theo duy nhất một sự cẩn thận theo tính con người, thì ngài không thấy có thể thỏa mãn nguyện vọng thánh thiện của các chị em. Và bởi thế, phải cần đến những phương thế siêu nhiên, bằng cách tăng gấp đôi việc cầu nguyện, việc siêng năng chịu các phép bí tích và việc xem lễ thật nhiều hơn nữa. Ngài truyền cho họ làm tuần cửu nhật kính Đức Trinh Nữ và Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ và là quan thày của họ.

Lập nhà dòng Mến Thánh Giá.
Trước khi những ngày trên qua đi, ngài đã được cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng hãy đưa họ ra khỏi nhà cha mẹ họ mà cho họ sống chung với nhau. Nỗi khó khăn là tìm được một nơi an toàn để họ còn giữ mình khỏi chuyện cưới gả, ngược lại với tập quán xứ sở họ, mà không bị kẻ ngoại đạo khám phá ra. Và cũng là nơi họ sống theo sự hướng dẫn của một phụ nữ có đạo, mà khôn ngoan cùng đức hạnh, có uy tín che chở họ tránh mọi phiền hà có thể xẩy đến cho họ sau này.
Vì bà Lucia có mọi phẩm tính trên, Đức cha Bêrytê đã hỏi bà xem bà có bằng lòng tiếp nhận nơi nhà bà và dưới sự che chở của bà những thiếu nữ trẻ đã đến trình diện với ngài chăng. Bà ta xin ngài cho hai ngày để suy nghĩ về điều ấy.
Hết thời hạn, bà ta thưa với ngài rằng ngài có thể sử dụng tất cả những gì thuộc về bà, rằng bà vui lòng dâng cúng ngôi nhà cùng mảnh đất của bà để tiếp trú những nữ tỳ Chúa Giêsu Kitô và dâng hiến của cải bà mà nuôi dưỡng họ, rằng bà ước ao được sống và chết cùng với họ, miễn sao trong sự thực thi đức vâng lời.
Chúng tôi nhận đồ biếu và sự dâng hiến của bà, không lưu tâm đến những điều ngoại lệ mà lòng nhún nhường của bà đã thêm vào.
Trước tiên, chúng tôi gửi đến bà 5 thiếu nữ mà theo họ sau đó là 5 thiếu nữ khác nữa. Giữa các thiếu nữ trên, có một chị có thể hướng dẫn tất cả những chị em khác. Hy vọng ngày này qua ngày nọ, con số sẽ phát triển lên.
Và nếu những kẻ sẽ đến với họ trong tương lai cũng đầy công nghiệp như những chị em mà chúng tôi đã biết thì ngôi nhà của họ chắc chắn sẽ là một ngôi nhà được chúc phúc, là nơi mà Thiên Chúa sẽ được tôn vinh không kém chi nơi những tu viện kỷ luật nhất tại Âu châu. Bởi chưng, chị em cầu nguyện nhiều, ăn ít, làm việc mọi giờ giấc mà họ không bận trong kinh nguyện và việc hãm mình ép xác. Họ có một chị bề trên mà họ yêu mến và hoàn toàn tôn kính. Họ tuân thủ thật chính xác những quy luật nhỏ mọn nhất đã được ban cho họ. Họ có một lòng tin tưởng và vâng phục trọn hảo nơi vị linh hướng của họ.
Tóm lại một lời, trong mọi sự, họ chẳng chịu thua những nữ tu nhiệt thành nhất nơi những dòng tu đã được canh tân hơn hết. Chúng tôi hy vọng rằng những dòng nước mắt các chị em đổ ra ròng rã ngày đêm, khi họ với lòng nhiệt thành nguyện ngắm van xin Thiên Chúa ơn trở lại cho toàn vương quốc, sẽ đón nhận được các ân huệ cần thiết của Ngài hầu hoàn thành một công trình rất đỗi to lớn thể ấy.
Hương thơm nhân đức của các chị em đã kéo đến với họ một phụ nữ trẻ, tuổi 25, mà chồng cô ta đã bỏ cô ta từ hồi cô mới 16 tuổi. Cô ta tự thấy mình không xứng đáng được nhận vào với các nữ tỳ của Chúa Giêsu Kitô, đã xin các thừa sai thương cho được cất một chòi lá bên cạnh nhà dòng, hầu có thể bắt chước các chị em ít nữa là một phần nào đó, theo sức mình. Chúng tôi đã bằng lòng chấp thuận lời xin của cô ta, hơn nữa, chúng tôi hay biết là cách đây đã 3 năm, cô ta đã được cha Hainques rửa tội, và cô ta đã nghe lời khuyên của ngài mà từ bỏ mọi hão vọng trần thế này.

Mười chủng sinh Quảng Ngãi.
Người ta trao phó cho chúng tôi việc dạy dỗ 10 chú học trò trẻ tuổi mà chúng tôi sẽ đem qua chủng viện Xiêm La với một ông thầy già. Ông này sẽ dạy các chú chữ nghĩa bản xứ của các chú. Chú lớn tuổi nhất chưa quá 18. Các chú rất dễ thương đến nỗi lòng tôi rạo rực niềm vui sướng khi viết về các chú. Xin tạ ơn Chúa đến muôn đời đã ban cho lớp trẻ này lòng yêu mến sự hoàn thiện Kitô giáo vào một lứa tuổi mà chơi bời và ham vui là tất cả những bận tâm thường tình của bọn trẻ. Các chú rất chuyên tâm vào việc học hành và cầu nguyện đến nỗi chúng tôi không thể đòi hỏi một sự trung thành nào lớn hơn nữa trong việc thực tập tu đức của các tập sinh sốt sắng nhất.

Chương VII
Chuyện bách đạo

Từ một bà vợ.
Chúng tôi gặp khá nhiều khó khăn mới khám phá ra nguồn gốc đích thực về những tiếng đồn bách đạo. Đây là điều người ta kể ra.
Có một ông người ngoại đã trở lại đạo. Ông ta hết sức thúc đẩy bà vợ trở lại đạo như ông. Ông còn dọa nạt bà ta là ông sẽ bỏ bà, nếu bà không nghe lời xin của ông. Con mụ đáng thương này, chẳng suy tính chi hơn, nổi tam bành mụ lên. Theo cơn giận dỗi, mụ đi gặp vị quan trấn thủ xứ Ca Chàm là nhân vật quan trọng hàng thứ ba của đất nước. Sau khi nộp đơn kêu trách ông chồng của mụ rồi, mụ không tiếc lời bài xích cái giáo phái những người Kitô hữu. Mụ nói rằng nếu người ta không chữa trị sớm nhất có thể, thì mọi người sẽ theo cái đạo giáo mới này hết, rằng bây giờ người ta chẳng sợ gì khi tụ họp công khai mà đọc kinh thờ kính Đức Chúa Trời, rằng người ta tổ chức những buổi hội họp khắp nơi rất đông đảo, coi thường các lệnh truyền của nhà vua. Mụ ta nói thêm rằng nếu người ta không xử lý cho mụ theo đơn kiện của mụ, thì mụ dứt khoát sẽ lên tận triều đình để xin xử án, mà ở đó thì chắc chắn là mụ sẽ không bị từ chối.
Nhưng khi mụ thấy người ta chẳng có nghe lời mụ cách tích cực lắm, thì mụ cảm thấy như bị châm bị chích. Mụ tức tốc lên đường đi Sinoa (Huế) nơi nhà vua thường ở, tuyên bố rằng mụ sẽ không bỏ qua bất kỳ sự gì để thành công ý đồ của mụ.

Bách đạo.
Mấy ngày sau đó, vị quan trấn thủ (xứ Ca Chàm) suy nghĩ rằng người ta có thể dễ dàng tâu chuyện lên nhà vua, có thể có những kẻ sẽ làm môi giới trong triều đình, về ấn tượng do những lời của mụ đàn bà đang điên giận này có thể tạo ra, và biết đâu mụ ta lại chẳng tìm được nơi tựa chống lại bản thân ông. Do đó, vì chính trị, ông quyết định ngăn ngừa trước hậu quả của sự vu khống, ông cho ngược đãi một vài giáo hữu, phản bội lại danh dự và lương tâm của ông vì phần ích gia sản riêng. Ông cho phép lính tráng của ông bắt bỏ tù tất cả những ai rơi vào tay chúng. Cái hy vọng kiếm được lợi lộc trong những chuyện bắt bớ tương tự kích động chúng và chúng đã dễ dàng bỏ tù 30 người, cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, suốt gần 30 ngày trời trong cảnh rất khốn cùng.
Tuy nhiên, có tin là mụ đàn bà đó đã không xin được phép vào chầu vua. Và nhà vua bận việc chiến tranh chống xứ Đàng Ngoài không những mới đây vừa từ chối những khiếu nại khác chống người có đạo, mà còn xé bỏ và chà đạp dưới chân một vài đơn kiện tụng của những kẻ thù chống đạo nữa. Ngay khi vị quan trấn hay tin trên, ông truyền trả tự do cho tất cả các kẻ bị cầm tù. Nhưng lính tráng thì lại không muốn vâng lời, chờ người ta thỏa mãn lòng ham hố của chúng. Chúng biết người ta cần chúng trong vương quốc này nên đã tìm lợi lộc riêng tư tới độ ngạo mạn. Thường rất hay xảy ra là các cấp trên buộc lòng phải nhắm mắt trước hàng ngàn những quân phản nghịch nhỏ ở các nơi khác, không hề trừng phạt họ. Do đó, để vừa lòng chúng, vị quan trấn đồng ý cho chúng rút tỉa nơi những tù nhân tất cả những gì chúng có thể rút tỉa được. Hơn nữa, ông còn hứa với chúng sẽ phạt vạ nặng những kẻ nào bị bắt với ảnh tượng đạo thánh.

Một nhân chứng đức tin.
Chúng đã không quên sử dụng phép tắc mà người ta đã ban cho chúng. Phần lớn những người bị tù ngục xiềng xích đều bị đánh đòn và chỉ được tha về nhờ tiền bạc đút lót. Có một người trong các người khác tỏ ra lòng nhiệt thành cách rất đáng ca ngợi. Bởi vì, mặc dù chỉ có mình anh ta mới chuộc mình ra như kẻ khác, anh ta lại không muốn cho lính tráng thứ gì cả. Anh luôn phản kháng rằng ở tù vì Chúa Giêsu Kitô là một vinh dự quá lớn, nên không thể giải quyết bằng cách tìm phương tiện để ra khỏi tù.
Anh giáo hữu quả cảm này là con trai của một người đã chịu tử đạo. Anh tên là Michel. Khi anh bị bắt, người ta đã tìm thấy trong giỏ đồ của anh những cỗ tràng hạt, hình đạo, ảnh đeo và sách đạo đức viết bằng tiếng bản xứ. Người ta hỏi anh làm gì với những thứ đó. Người ta bảo anh phải từ bỏ dứt khoát những thứ đó đi, và nếu anh ta không chịu làm thế, người ta sẽ chặt đầu anh. Nhưng thay vì sợ hãi, anh hiên ngang trả lời rằng món đồ nhỏ mà người ta đã bắt được đó là phần di sản duy nhất và quý giá mà thân phụ của anh đã để lại cho anh khi ông chịu chết vì đức tin. Đối với anh, đó là phần thừa tự quá giầu có nên anh không thể từ chối được. Anh biết rõ giá trị di sản đó. Anh nghĩ rằng không có kho tàng nào đủ quý báu để mua di sản đó được, nếu anh muốn bán. Anh cũng không nghĩ rằng có những tra tấn nào đủ tàn nhẫn khiến anh thay đổi tôn giáo, nếu người ta muốn cưỡng bức anh. Phần còn lại, người ta sẽ làm anh rất hài lòng khi người ta thực hiện những lời người ta đe dọa, đừng mong anh loại bỏ khỏi con tim của anh những tình cảm mà ơn thánh đã ghi sâu dấu vết trong đó. Tất cả niềm vui của anh là được chịu đau khổ và chịu chết như thân phụ của anh, tại vì cũng như thân phụ của anh, anh hy vọng tìm thấy một cuộc sống bất tử ngay trong chính cái chết.

Khổ hình.
Người ta bắt bẻ anh rằng không phải nói dông dài, nhưng phải xem cái gọi là lòng quả cảm đó có vững cho tới cùng chăng, rằng không như anh nghĩ đâu, đừng tin là chỉ đưa đầu ra là xong, cái khổ hình quá nhẹ nhàng, nhưng trước khi tới chỗ ấy, anh phải sẵn sàng mà chịu những khổ hình khác.
Trước hết, người ta bắt đầu bằng hình khổ đói và khát. Người ta để anh trọn bốn ngày trời không cho ăn cho uống. Và để tăng cái cực hình anh lên, người ta bầy ra ăn uống ngon lành trước mặt anh. Lúc thì người ta bảo anh với vẻ đồng cảm rằng chính anh là người quyết định nhập tiệc hay không, anh chỉ cần nói một tiếng là sẽ không thiếu thốn sự chi. Lúc thì với những lời nguyền rủa dữ tợn và những chế nhạo ác liệt, người ta coi anh như kẻ điên và tàn nhẫn thích tự sát hại chính mình bởi tính ngoan cố dại khùng, hơn là cứu lấy đời mình bằng những điều kiện mà một người khôn ngoan hẳn sẽ chấp nhận.
Nhưng vì anh đói khát vô cùng ơn cứu độ vĩnh cửu của anh hơn là sự giải thoát tạm thời, và khao khát nguồn thác hoan lạc thiên quốc hơn tất cả những rượu ngọt trần gian, chẳng sự gì có thể lay chuyển anh được. Anh chống trả lại tất cả những cám dỗ ấy bằng thái độ khinh thường cuộc sống và bằng lòng ước ao nồng cháy vinh quang Thiên Đàng. Anh để lòng hướng về những sự ấy hơn là bận tâm về những khổ ải anh đang chịu.

Tha về.
Tuy nhiên, giáo dân sợ cái kiên cường của anh lại làm người ta thêm tàn ác nhiều hơn nữa. Họ quyên góp rộng rãi và đến trao cho anh, van xin anh hãy dùng đó để thoát ra khỏi tay những kẻ bách hại anh. Nhưng anh nhất định giữ vững quyết tâm anh hùng mà anh đã theo. Anh nói :
« Không, không. Tôi sẽ không bao giờ bằng lòng cho người ta thả tôi ra theo đường lối này. Quý vị có thể chia cho những người nghèo số tiền mà quý vị trao tặng cho tôi đây. Còn về những gì liên quan đến tôi, hãy để một mình Thiên Chúa hành động. Tôi ở đây là vì lệnh của Ngài. Và nếu tôi ra, thì cũng chỉ do lệnh của Ngài mà tôi phải ra. »
Lính tráng đã hành hạ anh thì sợ anh chết vì cùng cực, tại vì chúng đã tự ý hành động, không có phép từ nhà vua, và có thể còn ngoài ý muốn của vị quan trấn nữa. Bởi thế, vài ngày hôm sau, chúng cho anh ta ăn một chút. Thất vọng vì không rút tỉa được gì nơi anh, chúng bắt anh trả giá sự tự do bằng một trận mưa đòn trên khắp thân thể anh, một cách cực kỳ vô nhân đạo. Trong khi đó, vị anh hùng cao cả cám tạ Thiên Chúa bằng trọn tâm hồn mình. Và người ta có thể nói rằng nếu anh có chi đó không vui, thì đó là anh thấy mình không bị nghiền nát dưới roi đòn, nhưng đúng hơn, là đã không dâng hiến đến giọt máu cuối cùng và không được chết đi trong cơn khổ nạn.
Người ta có thể thấy qua gương sáng này một khuôn mẫu vinh hiển về lòng dũng cảm của các người Đàng Trong đã theo đạo. Và người ta có thể qua đó xét thấy sức mạnh của ân sủng trong Giáo Hội sơ sinh này. Thật là một niềm an ủi cho chúng tôi được thấy giữa chốn lương giáo này, ở tận cùng thế giới, những kẻ có thể gần như đi song song với những tâm hồn cao thượng của Giáo Hội sơ khai. Chúng ta phải làm gì đây để vun trồng mảnh đất mà người ta đã thưởng nếm được những hoa trái tuyệt diệu và người ta còn hy vọng sẽ gặt hái được nhiều hoa trái khác nữa ?

Ký Sự của Cha Vachet

Thích, theo dõi và chia sẻ!


Các tin mới cập nhật:

Lời hay ý đẹp

HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ GÒ VẤP

523A  Lê Đức Thọ, P.16, Q. Gò Vấp, Tp HCM
ĐT: 028 38941492
Email : vanphongnhamemtggv@gmail.com
Web: https://hdmenthanhgiagovap.info

RSS
YouTube
YouTube