ĐỨC CHA LAMBERT VIẾNG THĂM ĐÀNG TRONG LẦN ĐẦU
Ký Sự của cha Vachet
Giới thiệu
Khi Đức cha Lambert sang Đàng Trong lần thứ nhất thì mang theo hai thừa sai người Pháp là cha Mahot và cha Vachet. Một trong hai thừa sai này là cha Vachet, người đã viết một bản tường thuật khá tỉ mỉ về chuyến đi, và bản tường thuật ấy đã được Hội Thừa Sai Paris xuất bản thành sách vào năm 1680 :
Relation des Missions et des Voyages des Evesques Vicaires Apostoliques, et de leurs Ecclesiastiques ès Années 1672, 1673, 1674 et 1675.
(Paris, Charles Angot, 1680).
Trong tập sách trên, tường trình chuyến đi mục vụ của Đức cha Lambert tại Đàng Trong năm 1671-1672 nằm ở 57 trang đầu tiên. Cha Launay đã tái bản lại tường thuật ấy trong sách :
Histoire de la Mission de Cochinchine. Documents historiques, tome 1.
(Paris, Téqui, 1923, trang 78-117).
Chúng ta biết rằng bài tường thuật trên của cha Vachet được coi là trực tiếp, tức được viết ra vào quãng những năm 1672-1673 tại Xiêm La. Sau này, khi về hưu ở Paris, cha Vachet sẽ viết nhiều tập hồi ký khác, trong đó ngài cũng kể lại chuyến đi Đàng Trong năm 1671-1672. Những trang hồi ký đó sẽ góp thêm một số chi tiết bổ túc vào bản tường thuật đã xuất bản này.
Cha Vachet kể chuyện rất khéo, truyền đạt được cho độc giả những tình cảm chân thành của ngài. Đó là những tình cảm yêu thương và kính trọng của một linh mục đối với giám mục của mình. Đó là lòng tin tưởng và vâng phục của một thừa sai đối với bề trên của mình. Đôi khi, tình cảm riêng tư đó đã đưa ngài đi hơi xa một chút, đến nỗi đã như thần tượng hóa Đức cha Lambert lên. Nhưng điều này có lẽ dễ hiểu và dễ thông cảm thôi.
Và so với tất cả những bài viết của cha Vachet mà chúng tôi đọc được, có lẽ đây là bài viết có giá trị lịch sử hơn cả. Đây cũng là bản văn đầu tiên của cha Vachet được xuất bản cho công chúng hay biết. Một trong những yếu tố giúp giải thích điều trên, đó là yếu tố về thời gian như sau.
Năm 1671, cha Vachet vừa tới được Xiêm La ngày 30 tháng 6 thì ngày 20 tháng 7 tiếp đó đã lên thuyền đi Đàng Trong cùng Đức cha Lambert, tức chưa đầy 3 tuần lễ sau. Đối với vị linh mục thừa sai trẻ tuổi vừa từ Âu châu sang, tất cả đều mới lạ, tất cả đều ngỡ ngàng. Năm đó, cha Vachet mới 30 tuổi. Tường thuật gần như trực tiếp, cha Vachet sẽ kể ra những điều mắt thấy tai nghe, chưa bị thời gian xóa mờ hay làm lẫn lộn những kỷ niệm.
Nói thế, chúng ta vẫn bình tĩnh thấy rằng không bản tường thuật nào có thể hoàn hảo được. Bản tường thuật của cha Vachet vẫn có ít nhiều sai lầm, cách riêng về một vài con số. Quả thực, cha Vachet là người viết văn hơn là người viết sử, có khuynh hướng viết chuyện các thánh hơn là viết chuyện khoa học chính xác, nặng tình cảm đạo đức hơn tình yêu sự thật lịch sử.
Còn một điều nữa mà có lẽ chúng ta nên biết, đó là cách thức mà thời đó ban giám đốc Hội Thừa Sai Paris cho xuất bản các bài viết của những thừa sai gửi về. Các vị linh mục này từ chối xuất bản một số điều, cách riêng là những điều tiêu cực về các thừa sai dòng Tên, cho dù đó là sự thực. Có lẽ họ không muốn làm mất lòng hay sợ làm mất lòng các cha dòng này là các vị tu sĩ đang có rất nhiều uy tín thế lực tại triều đình vua nước Pháp lúc đó là vua Louis XIV. Bởi thế, trong tường thuật của cha Vachet được xuất bản ra, ta sẽ thấy có thiếu xót chi đó trong chuyện cha Barthélémy d’Acosta, người Nhật Bản, thuộc dòng Tên, đến gặp Đức cha Lambert. Và khi đọc tới chuyện Đức cha Lambert và cả cha Vachet bị ngã trọng bệnh vào cùng một lúc, thì bản tường thuật lại không nói cho chúng ta rõ tại sao các vị lại đột ngột ngã bệnh thập tử nhất sinh như thế. Có lẽ người ta đã tự nguyện tìm tránh cảnh « sự thật mất lòng » chăng ?
Rất mong quý bạn hãy vui đọc những trang sau đây để biết thêm đâu là sự thực, dù chỉ là một hai điểm nhỏ mọn, trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam.
Chương I
Từ Xiêm La tới Đàng Trong
Lên đường từ Xiêm La.
Chúng tôi lên thuyền ngày 20/7/1671. Đó là một thứ thuyền mà tiếng Đàng Trong gọi là thuyền bầu. Con thuyền được lèo lái bởi duy nhất bốn dân chài người Đàng Trong. Nói cho thực, chớ có kém lòng tin vào Thiên Chúa khi ra đi trên một con thuyền như vậy. Bạn hãy cứ tưởng tượng một con thuyền không đinh, không rợ, không mảnh sắt, không vải buồm và không hoa tiêu, mà dám rời xa đất liền. Bạn hãy hình dung một mớ vài ba mảnh ván nối lại với nhau cách sơ sài và buộc chung lại với nhau bằng những sợi giây tựa như những sợi mây thô thiển, những mỏ neo thì làm bằng gỗ, những cánh buồm là các mảnh chiếu gắn vào những cái cột là mấy thân cây tre, và bánh lái thuyền nằm ở một cái lỗ phía sau con thuyền, chỗ ấy nước dạt ra dạt vào rất dễ dàng. Chính là với những trang thiết bị như vậy mà chúng tôi khởi hành một chuyến đi xa cả hai trăm dặm đường vào một mùa đã thật cuối kỳ đi biển, đến một xứ sở đang lúc chiến tranh, và trên một vùng biển bão tố lúc nào không hay và đầy dẫy hải tặc.
Nếu chỉ lấy cái khôn ngoan của con người làm mẫu mực trong những tình huống như thế, thì rất nhiều kẻ sẽ kết án là liều lĩnh dại dột mà ra đi như vậy. Một ông khu trưởng người Anh quốc, là người mà tôi chỉ cho thấy con thuyền của chúng tôi, đã quả quyết với tôi rằng dù người ta hứa với ông cho ông ăm ắp những vàng ròng chất đầy con thuyền người Đàng Trong đó, thì ông cũng chẳng hề ao ước sự gì hơn trên cõi đời này là đừng phải bước chân lên con thuyền đó. Ông tuyên bố vậy cho dù chính ông đã tìm tới vùng Ấn Độ Dương này là chỉ để lo làm giầu mà thôi. Nhưng đấy không thể nào là lời ăn tiếng nói, cũng không thể nào là tư tưởng của một thừa sai giảng đạo được.
Vì chẳng được liều mạng cách vô lý, ta chẳng phải lo sợ quá đáng khi đưa mình vào nguy nan nào đó hầu lo cho việc đạo được phát triển. Ta phải luôn luôn sắp sẵn một con thuyền thiêng liêng nhỏ mà thân thuyền là đức tin, bánh lái thuyền là lòng bác ái, cột buồm là đức cậy, cánh buồm là lòng nhiệt thành, giây dợ, mỏ neo và mái chèo là lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Linh hồn đã có sẵn những nhân đức ấy thì dập dềnh lướt sóng trên một con thuyền bầu nhỏ cũng an toàn như trên một con tàu to lớn nhất, điều mà người ta sẽ nhận thấy qua chuyến đi biển thành công của chúng tôi.
Khi rời Xiêm La.
Đức cha Bêrytê (tức Đc Lambert) không thể ra khỏi đất nước Xiêm La mà không có sự ưng thuận của nhà vua xứ này. Phải khó khăn lắm ngài mới xin được sự ưng thuận đó. Nhà vua cũng như vị đại thần vương quốc cho người nhắn nhủ nhiều lời với ngài rằng đừng liều lĩnh đem thân ngài vào một nỗi hiểm nguy đương nhiên như vậy. Nhưng sau cùng, đấng này vị nọ đều nhượng bộ trước những nài xin của vị giám mục ấy. Sau khi đã được giấy phép mà ngài yêu cầu, ngài đã lập cha Laneau làm cha tổng đại diện tại vương quốc mà ngài rời đi, thể theo năng quyền mà mới đây đoản sắc của Đức Giáo Hoàng Clêmentê thứ IX đã ban. Theo đoản sắc đó, Đức Thánh Cha đã nới rộng quyền tài phán của các giám mục đại diện tông tòa lên đất nước rộng lớn này.
Xuôi dòng sông ra cửa biển.
Như vậy, tất cả mọi khó khăn để khởi hành được cất khỏi, chúng tôi xuôi dòng sông. Dòng sông này, như người ta biết, có thể đón nhận suốt trên 80 dặm dài các con tàu của những hải cảng lớn nhất ; và con sông duyên dáng chẩy bao quanh chân tường thành kinh đô Xiêm La, rồi từ đó mà ra tới biển chỉ còn lại là 40 dặm. Dọc dòng sông thì không ngừng có vô số tàu bè thuộc mọi quốc gia chở đầy dẫy hàng hóa từ Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa, Đài Loan, Bantam và hiện nay là Âu châu. Chúng tôi hy vọng sẽ sớm thấy tàu bè nước Pháp nữa nhờ Hãng Hải Thương Hoàng Gia, Hãng này có thể lập tại đây một kho hàng buôn bán tốt nhất với Trung Hoa và Nhật Bản.
Mặc dù gió không mấy thuận tiện, chúng tôi chỉ mất ba ngày là ra tới được cửa sông. Lúc đã qua khỏi đó, chúng tôi gặp thấy ngay những hòn đảo đầu tiên dọc theo bờ biển cho tới lúc vào Cam Bốt.
Đi biển.
Ngày nào chúng tôi cũng được cái thú vui và cái tiện lợi là câu được những con cá ngon nhất trần gian ; chiều nào, chúng tôi cũng thả neo tại một hòn đảo nào đó có nước ngọt. Nhờ vậy, cái khó chịu khi đi thuyền được bù đắp lại rộng rãi nhờ những lợi thế nho nhỏ đó.
Nhưng bởi vì một chuỗi dài may mắn dễ dàng thì chẳng hợp với đời sống thừa sai, nên chúng tôi sẽ sớm sống trong tình huống mà những ai cứng rắn nhất vẫn có thể bị nao núng lòng can đảm và khí khái.
Bão tố.
Vào khoảng chừng mười lăm ngày trôi qua sau khi chúng tôi khởi hành, chúng tôi đã tưởng mình bị vong mạng trên một đoạn đường 12 dặm từ đảo này sang đảo nọ. Buổi sáng hôm đó, gió thật hiền hòa ; khoảng buổi trưa thì gió đổi thành một trận bão tố kinh hoàng và một cơn mưa khủng khiếp. Dù mưa, gió vẫn dữ dội khốc liệt, có lúc gió làm biển xô dậy thành cả hàng ngàn tảng núi và rồi tức thì lại thành những vực sâu thăm thẳm hãi hùng. Con thuyền nhỏ của chúng tôi bị sóng biển và phong ba dập đánh điên cuồng. Các thủy thủ chúng tôi, với tất cả khéo léo và can trường của dân tộc họ, đã lo sợ bị đắm thuyền. Họ vội vã chặt bớt một phần cánh buồm, phần còn lại dính chặt vào cột thuyền thì làm trò chơi cho gió lốc.
Họ lại càng lo sợ hơn nữa khi thấy mình ở giữa hai tình cảnh hiểm nghèo : trước mặt chúng tôi là một tảng đá to lớn đang đe dọa sẽ đập vỡ tan tành con thuyền nếu không mau mắn lìa xa ra, và con thuyền chúng tôi lại không xa đó lắm, còn bị gió thổi dạt về đó nữa. Phía bên kia là đất liền, nhưng có những dải cát trải ra biển tới cả nửa dặm, những con sóng biển đập lên các dải cát như cuồng điên, chẳng ai có thể tưởng tượng được nếu chưa từng chứng kiến tận mắt. Bởi vì những dòng sông dâng nước mau chóng tràn qua bờ, qua đê, và những dòng thác lũ giận dữ cuốn theo hàng loạt đá sỏi từ từ lăn đi tạo nên một âm thanh rầm rì khác hẳn với tiếng sóng ngầm rợn rùng vang dội còn xa hơn cả tầm tiếng súng đại bác nữa.
Các thủy thủ chúng tôi không biết chọn giải pháp nào. Bởi vì, ra biển thì là chuyện không thể được ; hướng vào tảng đá thì chắc chắn sẽ bị đắm thuyền ; quay về đất liền thì là sự liều lĩnh thấy rõ, vì phần thì do sóng ngầm, phần thì xem ra bờ biển lại đầy đá tảng, và như thế thì cũng nguy hiểm y như hướng vào tảng đá vậy. Tuy nhiên, đối với chúng tôi, giải pháp sau cùng này có phần khá hơn, chúng tôi cố thuyết phục các người Đàng Trong theo giải pháp đó. Sau khi chúng tôi phó mình cho sự quan phòng của Thiên Chúa, với ý nghĩ rằng chúng tôi chỉ còn lại một nửa giờ đồng hồ để sống mà thôi, chúng tồi liều mình vào giữa những trận sóng biển mà chỉ nhìn thôi cũng đủ làm những ai gan dạ nhất phải hãi sợ.
Thoát nạn.
Để tránh những cơn sóng nhận chìm chúng tôi bất thình lình, mỗi người chúng tôi ngồi xuống sàn con thuyền bầu, tay cầm mái chèo, cố giữ con thuyền không để cho sóng đánh ngang hông, bằng không chúng tôi sẽ bị vong mạng không đường cứu chữa. Sau cùng, vượt trên mọi niềm hy vọng của con người, con thuyền của chúng tôi dạt vào đất liền quãng một tầm súng bắn. Ngay tức thì, các thủy thủ, hai linh mục người Đàng Trong và các gia nhân liền nhẩy xuống nước để đưa chúng tôi vào bờ xa biển nhất có thể.
Tôi đã từng chứng kiến tại Madagascar cảnh đắm tàu một con tàu tên là Saint Jacques và một sà lúp tốt nhất trong các sà lúp mà người ta có thể tạo dựng. Cả hai con tàu ấy đều bị đập vỡ trên bãi cát do những cơn sóng biển kém dữ dằn hơn những cơn sóng mà chúng tôi vừa thoát khỏi.
Ôi, thật là tốt khi giữ được một tinh thần tinh sạch ! Chỉ có tinh thần đó mới có thể cầm giữ được sự phán đoán trong những tình cảnh như vậy.
Tôi để ý quan sát hai hay ba lần Đức cha Bêrytê. Tôi thấy ngài luôn luôn giữ nét mặt bình thản và vui tươi như thường lệ. Vì ngài nhận thấy tôi ngạc nhiên trước cái bình an nơi ngài, ngài mỉm cười nói với tôi, đó là dấu hiệu tinh thần ngài luôn vững vàng và lòng ngài luôn an bình, rằng tình trạng mà chúng tôi gặp phải, không được làm chúng tôi ra khó chịu, đó là chuyện đi theo với việc dấn thân của chúng tôi. Ngài thêm rằng :
« Tất cả những gì mà chúng ta phải lo, là chúng ta ở trong mệnh lệnh của Thiên Chúa. »
Lưu lại trên đất liền.
Sau khi thoát nạn, chúng tôi chỉ còn nghĩ tiếp tục cuộc hành trình không trễ nải, tại vì chúng tôi còn ít lương thực và mảnh đất mà Đấng Quan Phòng đã ném chúng tôi lên lại khô khan chẳng đem lại chi cho cuộc sống con người. Người ta chỉ thấy ở đây tê giác, cọp và lợn rừng mà thôi. Nhưng con thuyền của chúng tôi lại trong tình trạng không thể ra biển được trước khi tu sửa lại. Bởi thế, chúng tôi lo không biết chúng tôi sẽ ra sao. Lúc đó, một thủy thủ của chúng tôi đi thăm dò bờ biển đã kể lại cho chúng tôi rằng có một con sông nằm cách đó một phần tư dặm đường, chúng tôi có thể đưa con thuyền tới đó được nhờ nước thủy triều dâng cao, và ở đó có phương tiện để sửa chữa con thuyền vì cần phải sửa chữa mới có thể hoàn thành chuyến đi được.
Mau lẹ cách mấy đi nữa thì cũng phải đợi tới mười lăm ngày trời. Chúng tôi đã vội vàng dựng lên một chỗ trú thân nhỏ bằng thân cây và lá. Chúng tôi lưu lại đó cho tới ngày 16 tháng tám. Chúng tôi dựng lên một bàn thờ và mỗi ngày chúng tôi đều dâng thánh lễ với nhiều niềm an ủi.
Khi con thuyền đã sẵn sàng, chúng tôi xuống dòng sông đã khám phá ra và cứ theo dòng mà ra biển. Tám ngày sau thì chúng tôi tới một nơi trông thấy được cửa biển xứ Cam Bốt. Đám người của chúng tôi không dám đến quá gần cửa biển đó, bởi vì nhà vua xứ này đang có chiến tranh với xứ Đàng Trong, ông sẽ cho chặt đầu tất cả những người Đàng Trong nào mà người ta có thể bắt được.
Tránh cướp biển.
Nỗi e sợ trên không phải duy nhất, vì chỉ thiếu một chút xíu nữa thôi là chúng tôi rơi vào tay bọn hải tặc lúc chúng tôi muốn rời ra xa đất liền. Một buổi sáng nọ, chúng tôi trông thấy một con thuyền lớn gọi chúng tôi đến bằng tiếng Đàng Trong, họ đốt lửa lên, đó là dấu hiệu xin cầu cứu. Nhưng vì chúng tôi nghi ngờ đó là cạm bẫy nên chúng tôi mau lẹ rút lui. Hai ngày sau, chúng tôi biết rằng chúng tôi đã không lầm, bởi vì chúng tôi lại thấy chính con thuyền đó trên đường chúng tôi đi, (vì gió cản khiến chúng tôi không vào được một hòn đảo nọ, điều làm chúng tôi tiến cực kỳ nhanh chóng trên đường đi). Chúng tôi nhìn thấy cái thái độ đi tìm mồi của con thuyền đó. Sau cùng, để tránh con thuyền ấy, chúng tôi vào một con sông lớn, chúng tôi phí mất 12 tiếng đồng hồ trong đó khi đi tìm một chút nước ngọt. Những rừng cây hai bên bờ sông làm thành nơi trú ẩn cho hằng hà sa số ruồi muỗi. Chúng không lớn hơn những ruồi muỗi ở xứ chúng ta (bên Âu), nhưng trận chiến mà chúng gây cho người ta suốt ban đêm thì không thể nào phân bì nổi. Vết cắn của chúng thì rất đỗi đau nhức và những tiếng vo vo của chúng thì rất đỗi khó chịu, tất cả đều vượt quá sức tưởng tượng và chúng tôi buộc lòng phải rời địa điểm của chúng tôi ngay khi nước thủy triều vừa lên.
Ngoài khơi Cam Bốt.
Ngày hôm sau chúng tôi nhận ra cửa khẩu tuyệt đẹp của con sông Cam Bốt, chia ra ba nhánh khác nhau mà cả ba đều có thể đón rước các tàu bè và dẫn tới kinh đô cách biển 80 dặm. Tại chỗ đó, chúng tôi gặp lại lần thứ ba con thuyền của bọn hải tặc. Họ tin rằng chúng tôi không thể nào thoát được họ nữa. Bởi thế, xem ra thật khó mà thoát khỏi tay bọn chúng, nếu chúng muốn bắt chúng tôi bằng sức mạnh. Nhưng vì chúng tôi ở đầu ngọn gió, chúng tưởng tượng ra là tốt hơn phải dùng mưu mẹo để bắt chúng tôi. Chúng làm tất cả những gì có thể để lôi kéo chúng tôi về phía chúng. Lúc thì chúng gây sợ hãi, lúc thì lại tỏ ra xông xáo liều lĩnh. Chúng căng tất cả các cánh buồm lên để lao thẳng vào chúng tôi. Sau một lúc, chúng lại hạ buồm xuống để mời chúng tôi phải đề phòng cảnh giác. Suốt ngày chúng tôi có được gió thuận khiến chúng tôi đi mau hơn bọn chúng, sau cùng màn đêm tới tách xa chúng tôi ra, và chúng tôi không còn thấy bọn chúng nữa.
Ngoài khơi Chiêm Thành.
Tuy nhiên, vì đi gần đất liền quá, chúng tôi bị mắc cạn suốt năm tiếng đồng hồ. Rồi chúng tôi tìm ra được cách để tiếp tục con đường của chúng tôi với niềm hy vọng ngày hôm đó tới được bờ biển Đàng Trong. Bởi vì chúng tôi đã sẵn sàng vượt qua mũi đất Chiêm Thành, (là việc rất khó khăn khi người ta không đi đúng thời). Buổi sáng, chúng tôi nhìn thấy đỉnh cao những ngọn núi. Tới khoảng ba giờ chiều, chúng tôi đến gần cách khá thuận tiện để vượt qua mũi đất. Lúc đó, xuất hiện một con tàu căng buồm đâm thẳng về chúng tôi. Con tàu ấy có được tất cả mọi ưu thế có thể tưởng tượng ra được, và nếu nó muốn chận đường đi thay vì chạy thẳng về phía thuyền chúng tôi, thì nó đã chận được mọi lối thoát của chúng tôi rồi. Nhưng vào lúc mà chúng tôi chẳng còn chờ đợi chi nhiều nữa, và vào lúc mà các người Đàng Trong của chúng tôi quả quyết rằng chẳng còn cứu vãn được chi nữa, thì Thiên Chúa đã định liệu một cách khác. Chúng tôi chẳng để mất chí khí, vì nhờ gió thuận, chúng tôi cầm lấy mái chèo. Và ra sức chèo chống, chúng tôi rời xa ra được những tên cướp đó, chúng là những hải tặc người Hoa, chúng có thói quen man rợ là chém đầu tất cả những ai chúng bắt được, để chẳng còn ai cáo tội chúng sát nhân và cướp của. Chúng sợ bị mắc cạn nếu chúng đuổi theo chúng tôi khi thấy chúng tôi quay thẳng vào phía đất liền ; do đó, chúng ngưng lại và để cho chúng tôi có giờ đi thật xa vượt qua được cảng Phan Rí bình an. Bến cảng này thuộc vương quốc Chiêm Thành (nơi mà chúng tôi đã muốn tạt vào nếu chúng tôi bị đuổi theo). Chúng tôi đã không cần tới giải pháp ấy, chúng tôi đã qua mũi đất đó vào ban đêm, và chúng tôi đến được bờ biển Đàng Trong mà không gặp tai nạn nào.
Ký Sự của cha Vachet